Bài 2: Nghị định 24 - Từ 'công thần' đến 'nút thắt'

Các chuyên gia cho rằng sau hơn 10 năm thì Nghị định 24 đã không còn phù hợp và nên sửa đổi theo hướng không nhất thiết phải độc quyền nhà nước về một thương hiệu vàng.

Nghị định 24 đã được ban hành rất kịp thời và phát huy tác dụng khá tốt, chấn chỉnh được tình trạng dùng vàng làm công cụ giao dịch. (Ảnh: PV/Vietnam+)

Không thể phủ nhận rằng hơn 10 năm qua, Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng đã có những thành công rất lớn trong việc ngăn chặn cũng như chấm dứt tình trạng “vàng hóa” trong nền kinh tế Việt Nam.

Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện tại, việc sửa đổi Nghị định này là vô cùng cần thiết để tháo gỡ những “nút thắt” trả lại sự minh bạch cho thị trường vàng, góp phần ổn định thị trường tài chính-tiền tệ.

Xứ mệnh lịch sử

Giáo sư, Tiến sỹ Hoàng Văn Cường, Đại biểu Quốc hội, Ủy viên Ủy ban Tài chính ngân sách của Quốc hội cho biết năm 2012 vàng được coi như một phương tiện thanh toán, gần như là tiêu dùng vàng thay cho tiền, hầu như những quan hệ gì giá trị lớn là quy thành vàng. Nhiều người gọi thời kỳ đó là thời kỳ "vàng hóa nền kinh tế."

Tình trạng đó kéo dài sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy như giá trị đồng tiền không được ổn định. Người dân không tin tưởng vào tiền đồng, không thể quản lý được vấn đề xuất nhập khẩu và ngoại hối, không thể quản lý được vấn đề tỷ giá, làm mất giá trị đồng tiền.

Trong bối cảnh đó, theo ông Cường, Nghị định 24 đã được ban hành rất kịp thời và phát huy tác dụng khá tốt, chấn chỉnh được tình trạng dùng vàng làm công cụ giao dịch.

Ông Nguyễn Việt Anh - Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng Thương mại Cổ phần Tiên Phong (TPBank) cũng đánh giá Nghị định 24 ra đời đã đem lại thành công rất lớn trong việc bình ổn thị trường vàng. Hơn 10 năm Nghị định được ban hành, đã chấm dứt tình trạng định giá tài sản dùng vàng làm phương tiện thanh toán. Điều đó cũng cho thấy tỷ giá và lãi suất ổn định, đặc biệt là dự trữ ngoại hối của Việt Nam tăng lên rất cao, so với thời điểm trước khi Nghị định 24 ra đời.

“Một điều có thể thấy nữa là trước năm 2012 - khi Nghị định 24 chưa ra đời - dự trữ ngoại hối của chúng ta thường xuyên bị thâm hụt. Điều này cho thấy việc thoát ly ra khỏi vàng trong các hoạt động kinh tế vĩ mô là thành công rất lớn của Nghị định 24,” Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng TPBank nói.

Theo ông Nguyễn Anh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Quản lý ngoại hối, Ngân hàng Nhà nước, thời điểm ban hành Nghị định 24 cách đây hơn 10 năm, trong bối cảnh kinh tế vĩ mô còn đang bất ổn nên nghị định này đã góp phần ổn định thị trường vàng cũng như góp phần ổn định vĩ mô. Thời gian gần đây, giá vàng tăng cao nhưng tỷ giá vẫn ổn định, đây là cơ sở để chứng minh rằng mục tiêu ổn định ngoại hối đã đạt được.

Đã đến lúc cần thay tấm áo mới

Các chuyên gia cho rằng sau hơn 10 năm thì Nghị định 24 đã không còn phù hợp do tình hình đã thay đổi rất nhiều từ kinh tế vĩ mô, quan hệ tài chính-tiền tệ, quan hệ quốc tế...

Các chuyên gia cho rằng Nhà nước nên cấp phép nhập vàng nhằm tình trạng buôn lậu, thất thu thuế, thất thoát về ngoại tệ. (Ảnh: PV/Vietnam+)

Nghị định số 24 quy định Nhà nước là cơ quan độc quyền sản xuất vàng miếng, độc quyền trong quản lý xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng.

“Vàng SJC lại được xác định là vàng thương hiệu quốc gia thì đương nhiên người dân tích lũy sẽ chọn vàng tin cậy nhất. Mặc dù SJC và các vàng miếng khác có thể cùng chất lượng như nhau,” ông Cường nhấn mạnh.

Do đó, theo ông Cường rất cần thay đổi, sửa đổi Nghị định này theo hướng không nhất thiết phải độc quyền nhà nước về một thương hiệu vàng. Cùng với đó, có thể để nhiều doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất vàng miếng nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân.

“Khi cung được tự do, được cạnh tranh bình đẳng thì người dân tiếp cận vàng tích lũy sẽ dễ hơn, không còn tình trạng khan hiếm nữa. Tâm lý càng khan hiếm càng giá tăng, càng đi mua,” ông Cường phân tích.

Một điểm nữa được các chuyên gia chỉ ra khi giá vàng trong nước và giá vàng thế giới chênh lệch nhiều sẽ sinh lợi cho việc nhập lậu vàng. Nhà nước không cấp phép nhập vàng thì sẽ dẫn đến tình trạng buôn lậu, thất thu thuế, thất thoát về ngoại tệ, không tạo ra một thị trường cạnh tranh minh bạch, bình đẳng.

“Trong tình hình hiện nay, rất cần có sự thay đổi về phương thức quản lý đối với thị trường vàng. Vàng là một hàng hóa khá thông thường, mọi người đều có thể sử dụng và Nhà nước quản lý mặt hàng này rất dễ, không nhất thiết phải độc quyền,” ông Cường cho hay.

Đồng tình với quan điểm này, ông Nguyễn Thế Hùng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam cũng cho biết trên thế giới, các ngân hàng Trung ương không quản lý trực tiếp về kinh doanh vàng bởi họ quan niệm vàng là một loại hàng hóa thông thường. Tại các nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan thì có Bộ Thương mại hoặc Bộ Công thương, Bộ Kinh tế quản lý. Ngân hàng Nhà nước chỉ quản lý về ngoại hối, điều tiết các dòng tiền ngoại tệ. Các ngân hàng Trung ương ở các nước chỉ có vai trò dự trữ quốc gia, điều phối vàng như là một tài sản để dự trữ quốc gia. Đây là một công cụ để bảo đảm an ninh tiền tệ. Như vậy, ngân hàng Trung ương ở các nước không trực tiếp quản lý vàng.

Phó Giáo sư, Tiến sỹ Đinh Trọng Thịnh cũng cho rằng nền kinh tế của Việt Nam đang đi theo con đường kinh tế thị trường có định hướng của Nhà nước. Vì vậy, hoạt động của các thị trường quan trọng là tài chính-tiền tệ, trong đó có thị trường vàng, cũng cần tuân theo các quy luật chung.

“Trên thực tế, trong quá trình thảo luận, góp ý cho Nghị định 24, chúng tôi đã đặt ra vấn đề làm sao để xây dựng và phát triển thị trường vàng theo kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nghĩa là, một mặt, phải có sự liên thông hợp lý giữa vàng trong nước và vàng thế giới, đáp ứng nhu cầu của những người muốn mua tích trữ vàng. Mặt khác, vẫn chống được “vàng hóa” hay việc mọi nguồn lực đổ vào kênh tích trữ vàng mà không lưu thông trong nền kinh tế và đi vào khu vực sản xuất thực. Vai trò điều hành, quản lý của Nhà nước phải được thể hiện rõ rang nhằm đạt được những mục tiêu này,” ông Thịnh nhấn mạnh.

Trước mắt, cá chuyên gia cho rằng cần phải nghiêm túc tổng kết lại việc thực hiện Nghị định 24 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng. Thứ hai, phải đưa ra một mô hình vận hành của thị trường vàng, theo các mục tiêu nêu trên và khả thi trong điều kiện kinh tế-xã hội của Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu sửa đổi Nghị định 24 cần thực hiện một cách hết sức khoa học, thận trọng.

Theo ông Thịnh, Nghị định 24 vẫn tiếp tục duy trì thị trường vàng có sự quản lý đặc biệt của Nhà nước, nghĩa là, kinh doanh vàng vẫn là ngành kinh doanh có điều kiện. Còn về những điểm cần sớm thay đổi, tăng nguồn cung vàng miếng SJC trên thị trường sẽ góp phần làm giảm cơn sốt giá vàng, tiến tới bỏ độc quyền vàng miếng, để một số lượng doanh nghiệp nhất định được tham gia kinh doanh mặt hàng này dưới các quy định và sự giám sát chặt chẽ của pháp luật.

Ở một khía cạnh khác, Tiến sĩ Huỳnh Thanh Điền-Trường Đại học Nguyễn Tất Thành, cho rằng Nghị định 24 sửa đổi theo hướng giá vàng trong nước phải liên thông với giá vàng thế giới, bằng cách khơi thông nguồn vàng nhập khẩu, phải mở chứ không “thắt lại” như trước đây.

“Nhà nước nên cho phép một số doanh nghiệp đủ điều kiện được tham gia làm vàng miếng, không nên tạo sự độc quyền một thương hiệu vàng miếng. Cần tạo ‘sân chơi’ và có cơ chế để quản lý thị trường này. Khi Nhà nước ‘mở’ nguồn cung mà thị trường vẫn biến động nhiều thì sẽ can thiệp, điều tiết thị trường khi bằng công cụ của mình,” ông Điền nói./.

Bài 3: Quản lý thị trường vàng thế nào để công khai, minh bạch?

(Vietnam+)

Nguồn VietnamPlus: https://www.vietnamplus.vn/bai-2-nghi-dinh-24-tu-cong-than-den-nut-that-post935155.vnp