Bài 1: Quản lý rủi ro trong tuân thủ thuế: Ngăn ngừa tiêu cực, tăng thu ngân sách

Khi số lượng người nộp thuế tăng ngày càng nhanh, mô hình hoạt động của người nộp thuế lớn, tính chất hoạt động ngày càng phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro về thuế… nhưng cơ quan thuế không có đủ nguồn lực để quản lý tất cả thì cần phải áp dụng quản lý rủi ro tuân thủ thuế.

Tại Việt Nam, quản lý rủi ro trong tuân thủ thuế được áp dụng từ năm 2015 với những hoạt động sơ khai, chủ yếu trong thanh tra, kiểm tra thuế. Trong 10 năm qua, hoạt động này đã có những bước phát triển, đạt những kết quả nhất định.

Những viên gạch nền móng trong quản lý rủi ro

Tổng cục Thuế cho biết, ở Việt Nam, trước năm 2015, quản lý rủi ro (QLRR) là một nội dung còn khá mới. Để chuẩn bị cho việc áp dụng QLRR, Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính đã có những bước chuẩn bị từ cơ chế, chính sách đến việc triển khai thí điểm ứng dụng trong nội ngành Thuế.

Cụ thể, năm 2015, Tổng cục Thuế đã ban hành Quyết định số 2176/QĐ-TCT ngày 10/11/2015 về việc cơ quan thuế các cấp áp dụng quản lý rủi ro trong công tác lập kế hoạch thanh tra thuế, kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp thuế (NNT). Bộ tiêu chí gồm 20 chỉ số với việc gán điểm rủi ro tương ứng với các mức độ rủi ro và quy mô doanh nghiệp từ đó tiến hành lựa chọn NNT để phục cho việc thanh tra, kiểm tra thuế. Từ đó, Bộ Tài chính đã tham mưu trình Chính phủ trình Quốc hội đưa nội dung QLRR vào Luật quản lý thuế (QLT); đồng thời Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 204/2015/TT-BTC ngày 21/12/2015 về áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế.

(Ảnh minh họa)

Tiếp sau đó, Bộ Tài chính đã bộ tiêu chí áp dụng quản lý rủi ro trong công tác phân loại hồ sơ hoàn thuế VAT và lựa chon doanh nghiệp có dấu hiệu rủi ro để xây dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra sau hoàn thuế; ban hành bộ tiêu chí, chỉ số lựa chọn doanh nghiệp có dấu hiệu rủi ro để xây dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra tại trụ sở NNT; ban hành bộ tiêu chí và chỉ số phân tích thông tin đánh giá NNT có dấu hiệu rủi ro trong việc tạo, in, phát hành và sử dụng hóa đơn.

Với việc áp dụng quản lý rủi ro, trong giai đoạn 2016-2020, cơ quan thuế các cấp đã thực hiện 472.868 cuộc thanh tra, kiểm tra, xử lý truy thu, truy hoàn và phạt trên 89.896 tỷ đồng. Trong đó, đã thực hiện thanh tra 35.757 cuộc, truy thu, truy hoàn và phạt 48.423 tỷ đồng, số thuế truy thu, truy hoàn và phạt bình quân một cuộc thanh tra tăng từ 1.134 triệu đồng (năm 2016) lên 1.969 triệu đồng (năm 2020), tương ứng mức tăng 173,7%.

Về kiểm tra thuế, toàn ngành Thuế đã thực hiện 437.111 cuộc kiểm tra tại trụ sở NNT, xử lý truy thu, truy hoàn và phạt 41.473 tỷ đồng. Số thuế truy thu thêm so với số thuế doanh nghiệp kê khai cho thấy, cơ quan thuế đã nỗ lực trong phân tích rủi ro, tìm ra những sai phạm trọng yếu, số thuế truy thu bình quân cao. Điều này cho thấy, công tác QLRR trong thanh tra, kiểm tra đã phát huy hiệu quả và mang lại số thuế truy thu lớn cho ngân sách nhà nước.

Từ những kết quả đạt được trên, quản lý rủi ro trong quản lý thuế được quy định cụ thể tại Điều 9 Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH15. Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 31/2021/TT-BTC để thay thế Thông tư số 204/TT-BTC nhằm cụ thể hóa công tác áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế và đặc biệt giao quyền cho Tổng cục Thuế ban hành chi tiết bộ chỉ số tiêu chí để phù hợp với tình hình thực tế, cũng như chủ động trong công tác quản lý của ngành.

Từ sau khi Thông tư 31/2021/TT-BTC có hiệu lực, Tổng cục Thuế sát sao chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện các quy định về quản lý rủi ro bằng việc ban hành các bộ chỉ số tiêu chí, quy trình thực hiện để đáp ứng theo các ngiệp vụ quản lý thuế.

Theo đó, áp dụng QLRR trong đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, nợ thuế, cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế, hoàn thuế, kiểm tra thuế, thanh tra thuế, quản lý và sử dụng hóa đơn, chứng từ và các nghiệp vụ khác trong quản lý thuế. Thu thập, xử lý thông tin, dữ liệu liên quan đến NNT; xây dựng tiêu chí quản lý thuế; đánh giá việc tuân thủ pháp luật của NNT; phân loại mức độ rủi ro trong quản lý thuế và tổ chức thực hiện các biện pháp quản lý thuế phù hợp.

Thu ngân sách từ thanh tra, kiểm tra tăng mạnh, chuyển hàng nghìn hồ sơ sang công an

Theo đánh giá của Tổng cục Thuế, việc áp dụng QLRR đã góp phần nâng cao nhận thức của cơ quan thuế, NNT và cộng đồng xã hội trong việc cải cách quản lý thuế theo hướng minh bạch, công khai, tạo điều kiện thuận lợi cho NNT chấp hành tốt pháp luật về thuế, góp phần nâng cao mức độ tuân thủ pháp luật thuế của NNT, giảm chi phí quản lý thuế và chi phí tuân thủ của NNT.

(Ảnh minh họa)

Góp phần nâng cao hiệu quả trong quá trình lập kế hoạch kiểm tra, thanh tra tại trụ sở NNT, tiết kiệm đáng kể chi phí, nguồn lực con người; xác định đúng đối tượng cần kiểm tra, thanh tra thuế, ngăn ngừa các biểu hiện tiêu cực trong việc lựa chọn đối tượng, đảm bảo tính khách quan, sử dụng hiệu quả các nguồn lực phục vụ công tác kiểm tra, thanh tra tại trụ sở NNT; khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để NNT tuân thủ tốt các quy định pháp luật; hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật thuế. Dựa trên kết quả áp dụng các bộ tiêu chí đánh giá rủi ro, kết quả thanh tra, kiểm tra NNT tại cơ quan thuế các cấp đều tăng qua các năm (tăng bình quân từ 1,3 tỷ đồng lên gần 2 tỷ đồng/cuộc thanh tra/năm).

Phân loại hồ sơ hoàn thuế VAT tự động, không có sự can thiệp của con người trong quá trình phân loại hồ sơ hoàn, rút ngắn thời gian phân loại hồ sơ hoàn, đảm bảo khách quan, công bằng trong phân loại hồ sơ hoàn thuế.

Theo dõi, quản lý chặt chẽ, sát sao tình hình quản lý, sử dụng hóa đơn chứng từ của NNT, hạn chế tình trạng mua bán hóa đơn bất hợp pháp.

Cụ thể, từ năm 2021-2023, kết quả thanh tra kiểm tra tính trên số thuế truy thu bình quân một cuộc thanh tra kiểm tra đều tăng qua các năm. Riêng năm 2020, 2021 do ảnh hưởng bởi dịch covid nên số cuộc thanh tra, kiểm tra và số thuế truy thu bình quân trên một cuộc thanh tra, kiểm tra số với năm liên trước giảm. Kết quả thanh tra thuế năm 2021 là 0,809 tỷ đồng/cuộc thanh tra thì năm 2022 là 1,366 tỷ đồng/cuộc thanh tra và năm 2023 tăng lên là 1,977 tỷ đồng/ cuộc thanh tra. Kết quả kiểm tra thuế tăng đều qua các năm: năm 2021 bình quân là 0,106 tỷ đồng/cuộc kiểm tra, năm 2022 tăng lên là 0,136 tỷ đồng/cuộc kiểm tra, năm 2023 tiếp tục tăng lên là 0,149 tỷ đồng/cuộc kiểm tra.

Cũng theo Tổng cục Thuế, sau khi áp dụng quản lý rủi ro trong việc sử dụng hóa đơn điện tử, ngày 10/5/2023, Tổng cục Thuế đã có hướng dẫn thực hiện chức năng đối chiếu tờ khai và hóa đơn trên phạm vi cả nước. Tính đến ngày 30/12/2023, theo báo cáo của các cục Thuế số thuế VAT đầu ra NNT đã thực hiện kê khai bổ sung là hàng nghìn tỷ đồng, trong đó phát hiện: có 17.245 NNT tạm dừng hoạt động, 12.843 NNT đã dừng hoạt động, 19.364 NNT bỏ địa chỉ kinh doanh, 2.188 NNT đã chuyển hồ sơ sang công an. Qua nắm bắt tình hình xử lý thực tế của các Cục Thuế cho thấy nhiều trường hợp NNT được thông báo khai thiếu thuế đã thực hiện điều chỉnh hóa đơn điện tử về số liệu đúng với số kê khai hoặc NNT báo đã hủy hóa đơn gây chênh lệch, nhưng quên hoặc không thực hiện được việc gửi thông báo 04 sai sót tới cơ quan thuế.

Về kiểm soát hóa đơn điện tử theo thông tin cảnh báo, Tổng cục Thuế đã hướng dẫn các Cục Thuế tổ chức kiểm tra “Danh sách NNT thuộc diện giám sát xuất hóa đơn vượt ngưỡng an toàn”. Qua báo cáo kết quả rà soát của Cơ quan thuế các cấp trong 06 tháng triển khai cuối năm 2023, toàn ngành đã thực hiện rà soát 34.314 NNT (bao gồm cả tổ chức, doanh nghiệp và hộ kinh doanh), trong đó đã có kết quả kiểm tra trên 80% NNT, nhiều Cơ quan thuế đã thực hiện rà soát hơn 90%-100% số lượng NNT vượt ngưỡng hệ số K, xác định được 15,26% NNT vượt hệ số K có rủi ro cao (kê khai sai, dừng hoạt động, bỏ trốn, chuyển cơ quan điều tra, ...).

Cùng với đó, kể từ ngày 27/10/2023, ngành thuế chính thức áp dụng phân loại hồ sơ hoàn thuế tự động theo rủi ro. Việc áp dụng này đã phần nào khơi thông được công tác giải quyết hoàn thuế mà lâu nay báo chí đã và đang phản ánh tâm tư, nguyện vọng của một số doanh nghiệp có hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu - mong được giải quyết hoàn thuế nhanh, kịp thời, chính xác để doanh nghiệp chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh, không phát sinh thêm chi phí lãi vay...

Việc áp dụng áp dụng quản lý rủi ro trong phân loại hồ sơ hoàn thuế gắn với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin đã rút ngắn được thời gian phân loại hồ sơ trước (hiện chỉ mất từ 1/2 ngày so với 3 ngày như trước đây).

Bài 2: Những thách thức phải đối mặt

An Nhiên

Nguồn TCDN: https://taichinhdoanhnghiep.net.vn/bai-1-quan-ly-rui-ro-trong-tuan-thu-thue-ngan-ngua-tieu-cuc-tang-thu-ngan-sach-d48420.html