Vị Trung tướng đầu tiên của quân đội nhân dân Việt Nam

Trung tướng Nguyễn Bình là người chỉ huy mưu lược, quyết đoán và dũng cảm, giữ kỷ luật nghiêm minh, lập nhiều chiến công xuất sắc ở những nơi nguy hiểm vào những thời điểm khó khăn nhất. Ông có công trong việc thống nhất lực lượng kháng chiến ở Nam Bộ và xây dựng Ban công tác thành (biệt động) Sài Gòn.

Lễ thụ phong Trung tướng Nguyễn Bình - làng Nhơn Hòa Lập, tỉnh Đồng Tháp (7/1948).

Biệt tài về quân sự

Trung tướng Nguyễn Bình tên thật là Nguyễn Phương Thảo (sinh năm 1908 tại thôn An Phú, xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Sinh ra trong một gia đình nông dân hiếu học và yêu nước, từ nhỏ, ông đã sớm bộc lộ phẩm chất và nhân cách cao cả, một bản lĩnh kiên cường, bất khuất.

Năm 1924, khi vừa tròn 16 tuổi, không cam chịu thân phận làm nô lệ, ông đã tham gia những hoạt động yêu nước, chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp và bị truy lùng phải trốn vào Nam hoạt động. Năm 1928, ông gia nhập Quốc dân Đảng, năm 1929, bị bắt và đày ra Côn Đảo.

Được tiếp xúc với những người bạn tù cộng sản, tiếp xúc với chủ nghĩa Mác, ông đã giác ngộ, đã ly khai với Quốc dân đảng, kiên định theo Đảng Cộng sản để thực hiện ước mơ làm cách mạng, đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc. Chính vì thế ông đã bị các bạn tù Quốc dân đảng đâm hỏng mắt trái nhưng ông đã nói: “Tuy tôi mất một con mắt nhưng tôi lại thấy sáng hơn khi còn hai con mắt”.

Năm 1935, mãn hạn tù, ông trở về quê nhà. Ông tiếp tục hoạt động, bí mật xây dựng chiến khu Đông Triều, và lại bị bắt một lần nữa. Tuy bị quản thúc nhưng ông vẫn nuôi ý chí cách mạng, bí mật xây dựng Đông Triều làm căn cứ chống Pháp một cách độc lập.

Năm 1943, ông được Trung ương giao phụ trách binh vận mua sắm vũ khí cho cách mạng ở Đông Triều, Hải Phòng, chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa. Ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đồng thời còn vận động binh lính các đồn Thủy Nguyên, Cửa Ông, thị xã Kiến An cung cấp vũ khí. Nhờ súng đạn nhiều mà Đông Triều trở thành chiến khu vững vàng và chùa Bắc Mã là tổng hành dinh của quân giải phóng chiến khu Đông Triều.

Ông chỉ huy nhiều đánh trận lớn như: đồn Bần Yên Nhân, tổ chức đánh cướp tàu Pháp ở Hạ Lý - Hải Phòng, hạ đồn Đông Triều, diệt đồn Bí Chợ, đánh địch chiếm thị xã Uông Bí,… thu được nhiều lương thực và vũ khí.

Trận đánh đồn Bần được coi là trận đánh du kích kiểu mẫu ở đồng bằng Bắc Bộ. Tháng 4-1945, Hội nghị quân sự Bắc kỳ quyết định cả nước chia làm 7 quân khu, Bắc Bộ có 4, ông giữ chức Tư lệnh Đệ tứ quân khu (tức chiến khu Đông Triều gồm các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hải Phòng, Hòn Gai, Móng Cái và Lạng Sơn).

Tháng 7/1945, ông đem quân đánh chiếm giải phóng thị xã Quảng Yên (Quảng Ninh), là tỉnh lị duy nhất ở miền Bắc về tay nhân dân trước Cách mạng tháng Tám. Tháng 8/1945, ông dẫn đầu lực lượng từ chiến khu về tham gia khởi nghĩa giành chính quyền tại thành phố Hải Phòng.

Khi thực dân Pháp trở lại đánh chiếm Sài Gòn, chiến tranh lan rộng ra toàn Nam Bộ, ông được Hồ Chủ tịch tín nhiệm cử vào miền Nam lo việc thống nhất các lực lượng vũ trang tại chiến trường Nam Bộ. Với tư cách là phái viên của Trung ương Đảng, tháng 11/1945, tại xã An Phú (huyện Hóc Môn), Nguyễn Bình tổ chức “Hội nghị quân sự Nam Bộ” đầu tiên.

Hội nghị bàn bạc về việc thống nhất các lực lượng vũ trang ở Nam Bộ lấy tên chung là Giải phóng quân Nam Bộ, thống nhất biên chế hình thức chi đội, phân chia khu vực hoạt động, đề ra những giải pháp tiến hành chiến tranh du kích. Trong hội nghị này, Nguyễn Bình được bầu làm Tổng Tư lệnh giải phóng quân Nam Bộ.

Do có biệt tài về quân sự, Nguyễn Bình đã giữ được miền Nam trong những “ngày cuồng phong bão tố”, bẻ gãy được mũi nhọn tiến công của quân viễn chinh Pháp. Dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Bình, các đơn vị bộ đội địa phương được tập hợp lại, chính quy hóa, đi vào nề nếp, đặt mục tiêu đánh Pháp lên trên hết, thống nhất được các nhóm giang hồ kiểu Bình Xuyên.

Một đóng góp nữa của Nguyễn Bình, đó là đào tạo binh chủng tinh nhuệ luồn sâu đánh hiểm, đột nhập vào thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn là hang ổ của địch, ngày đêm quấy rối, rải truyền đơn, ném lựu đạn, làm cho địch ăn không ngon ngủ không yên.

Dưới sự chỉ huy mưu lược, quyết đoán và dũng cảm, giữ kỷ luật nghiêm minh, ông lập nhiều chiến công xuất sắc ở những nơi nguy hiểm vào những thời điểm khó khăn nhất. Ông đã góp phần to lớn và việc chỉnh đốn xây dựng chính quyền và củng cố khối đoàn kết toàn dân ở Nam bộ.

Những chiến công buổi đầu của quân dân Nam Bộ được gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Bình, khiến các giới chính trị, quân sự Pháp cũng phải kính nể.

Năm 1947, ông được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam.

Vị Trung tướng đầu tiên

Ngày 25/1/1948, ông được Chính phủ phong quân hàm Trung tướng. Đây là Trung tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Cùng đợt có ông Võ Nguyên Giáp được phong Đại tướng.

Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Trần Tử Bình được phong Thiếu tướng. Lễ thụ phong được tổ chức vào tháng 7/1948 tại làng Nhơn Hòa Lập trên con kênh Dương Văn Dương, Đồng Tháp. Ông trở thành cán bộ quân sự cấp cao thứ hai của Việt Nam, sau Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Năm 1951, theo yêu cầu của Trung ương ông ra Bắc nhận nhiệm vụ mới. Trên đường đi ông bị giặc phục kích, hy sinh tại biên giới Việt Nam-Campuchia.

Trong sắc lệnh số 84/SL ngày 24/2/1952 truy tặng Huân chương Quân công hạng Nhất cho Trung tướng Nguyễn Bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất chu đáo, chi tiết ghi rõ từng thành tích công trạng của ông rất đặc biệt, dài tới 171 chữ vàng:

“Hoạt động cách mạng năm 16 tuổi; Suốt thời gian trước Tổng khởi nghĩa tham gia đánh Nhật, đuổi Pháp đã có công nhiều trong phong trào tranh đấu và khởi nghĩa ở các tỉnh miền duyên hải Bắc Bộ; Tổ chức đánh tàu commanhdant Bourdait, thu vũ khi xây dựng chiến khu Tư; Tháng 8 năm 1945, được lệnh Tổng khởi nghĩa dẫn bộ đội chiếm Hải Phòng, Kiến An, Đồ Sơn, chống thực dân Pháp đổ bộ, đánh chiếm tàu chiến và tàu vận tải của địch; Được lệnh vào Nam Bộ, trong khi bộ đội ở đó còn một số ít đang bị hàng vạn quân địch bao vây chặt chẽ, đã kiên quyết sáng suốt xây dựng bộ đội lớn mạnh và chỉ huy chiến đấu đánh thắng quân địch nhiều trận lớn trên các chiến trường Nam Bộ; Đã góp phần vào việc chỉnh đốn xây dựng Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ và củng cố Mặt trận Dân tộc thống nhất Nam Bộ”.

Ông cũng là người đầu tiên trong quân đội được nhận Huân chương cao quý này.

Năm 2000, được sự giúp đỡ của Chính phủ Hoàng gia Campuchia, đội công tác của Bộ Quốc Phòng đã tìm được hài cốt Trung tướng Nguyễn Bình đưa về nước ngày 29/2/2000. Lễ truy điệu hài cốt liệt sĩ Trung tướng Nguyễn Bình tổ chức trọng thể theo nghị thức Quân đội và an táng tại nghĩa trang TP Hồ Chí Minh.

Trong điếu văn đọc tại lễ truy điệu Trung tướng Nguyễn Bình ngày 11/3/2000, Thượng tướng Phạm Văn Trà (Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng lúc đó) đã nêu rõ: “Đồng chí Nguyễn Bình là một người Cộng sản kiên trung, một tướng lĩnh quả cảm, nghĩa hiệp giàu đức hy sinh, lòng dũng cảm và tài thao lược. Đồng chí đã có những cống hiến to lớn đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tên tuổi Nguyễn Bình luôn luôn gắn liền với chiến khu Đông Triều, chiến khu vùng Duyên hải Bắc Bộ, với Sài Gòn - Chợ Lớn, Đông Nam Bộ và Nam Bộ. Cuộc đời và sự nghiệp của đồng chí là một tấm gương sáng cho các thế hệ cán bộ, chiến sỹ Quân đội nhân dân Việt Nam học tập noi theo. Công lao và tên tuổi của đồng chí mãi mãi sáng ngời trên Đài Tổ quốc ghi công…”.

Những lời vàng tuyên dương công trạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tấm Huân chương Quân công hạng Nhất đầu tiên của quân đội và danh hiệu Anh hùng quân đội dành cho Trung tướng Nguyễn Bình là những dấu son chói lọi vinh danh tên tuổi và sự nghiệp của ông trên Đài Tổ quốc ghi công.

Ông là người con trung hiếu trí dũng vẹn toàn của dân tộc, là tấm gương sáng tận trung với nước, tận hiếu với dân, suốt một đời xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Tên tuổi và công lao của ông xứng đáng được tôn vinh trên khắp cả nước và lưu danh thơm mãi mãi cho các đời sau.

Thanh Hoa (TTXVN)

Nguồn Tin Tức TTXVN: http://baotintuc.vn/ho-so/vi-trung-tuong-dau-tien-cua-quan-doi-nhan-dan-viet-nam-20160927210446671.htm