Toàn văn phiên chất vấn Bộ trưởng TN&MT và Bộ trưởng GD&ĐT

Toàn văn phiên chất vấn: Bộ trưởng Bộ Tài nguyên & môi trường và Bộ giáo dục & Đào tạo

Nguyễn Thị Kim Ngân - Chủ tịch Quốc hội

Tại phiên làm việc chiều hôm qua Quốc hội đã chất vấn Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà. Sáng nay thời gian tiếp tục trả lời các câu hỏi của đại biểu 20 phút, đề nghị Bộ trưởng sẽ trả lời trong vòng 20 phút với tất cả những nhóm vấn đề trong các câu hỏi đã đặt ra chiều hôm qua. Xin mời Bộ trưởng.

Trần Hồng Hà - Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường

Trong buổi chiều hôm qua đã có 46 đại biểu chất vấn và tôi đã trả lời được một phần của câu hỏi. Hôm nay quỹ thời gian rất eo hẹp, 20 phút để trả lời những câu hỏi còn lại. Theo hướng dẫn của Chủ tịch Quốc hội, tôi xin phép được trả lời theo nhóm các vấn đề sau:

Thứ nhất, nhóm vấn đề môi trường đã được nhiều đại biểu quan tâm, đại biểu Nguyễn Văn Sơn, Nguyễn Chiến, Hà Sỹ Đồng, Nguyễn Phước Lộc, Nguyễn Anh Trí, Tạ Văn Hà, Bùi Thanh Tùng, Trần Quốc Khánh, Trương Trọng Nghĩa, Đặng Ngọc Nghĩa, Vũ Thị Lưu Mai, Nguyễn Sỹ Cương, Lưu Bình Nhưỡng, Hoàng Thị Thu Trang, Mai Thị Ánh Tuyết, Huỳnh Thanh Cảnh, Ngô Thị Minh, Ngô Sách Thực, Cao Văn Trọng, Nguyễn Văn Cảnh, Trần Văn Quý, Thái Trường Giang, Dương Trung Quốc, Phùng Văn Hùng, đã đề cập đến nhóm vấn đề này.

Trước hết tôi xin được báo cáo về hệ thống quản lý nhà nước về môi trường. Hiện nay chúng ta có một hệ thống quản lý nhà nước về môi trường tương đối đồng bộ từ Trung ương, ở địa phương. Ở Trung ương có Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng Cục môi trường và có 7 bộ, ngành có cơ quan môi trường là Cục hoặc Vụ. Ở địa phương, chúng ta có Sở Tài nguyên và Môi trường và có Chi cục bảo vệ môi trường, đặc biệt chúng ta có Cục cảnh sát về môi trường. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa các cấp trong hệ thống chưa thực sự đồng bộ, hiệu quả, sự phân công trách nhiệm và phối hợp giữa các cấp, các ngành, chế độ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân chưa được quy định rõ ràng. Điều này đại biểu Nguyễn Sỹ Cương đã nói đến, ví công tác quản lý như "thả gà ra để đuổi". Để giám sát tốt việc bảo vệ môi trường của một dự án, chúng tôi hoàn toàn đồng ý với đại biểu rằng cần phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa cơ quan cấp phép đầu tư và các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan khác, trong đó có quản lý nhà nước về môi trường. Cần phải quy định trách nhiệm cụ thể cho từng cơ quan quản lý nhà nước và cá nhân người thực thi công vụ. Chỉ trong trường hợp đó chúng ta mới có khả năng để giám sát hiệu quả dự án, nếu xảy ra sự cố sẽ dễ dàng xác định được trách nhiệm của tổ chức, cá nhân.

Năng lực chuyên môn của công chức làm công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường còn nhiều hạn chế, đặc biệt ở cấp huyện, cấp xã. Có một bộ phận công chức chưa đáp ứng tiêu chuẩn đạo đức công vụ, còn gây phiền hà, nhũng nhiễu cho doanh nghiệp và người dân vì lợi ích cá nhân. Đây chính là điều đại biểu Trương Trọng Nghĩa đã đề cập, chúng tôi tiếp thu ý kiến của đại biểu và xem xét lại tính liêm chính và năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức của ngành. Tôi đồng ý với đại biểu rằng khi đã nhận thấy yếu kém thì cần phải có giải pháp, có giải pháp thì cần phải bắt tay ngay vào công việc một cách quyết liệt, nói đi đôi với làm, cần phải siết chặt ngay kỷ cương, củng cố bộ máy và cán bộ. Tôi xin được đề xuất một số giải pháp như sau:

Trước hết, rà soát lại chức năng, nhiệm vụ và trình Chính phủ trên cơ sở xây dựng lại chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của bộ và đồng thời kiến nghị đối với toàn ngành.

Thứ hai, làm rõ quy định, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, cơ chế phối hợp của các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương, giữa trung ương với địa phương để đảm bảo một người được giao một việc, không bỏ trống và không chồng chéo. Thể chế hóa về chế độ, trách nhiệm tổ chức, cá nhân, kể cả những hội đồng tư vấn trong đánh giá tác động môi trường hoặc vấn đề cấp phép, vấn đề giám sát của các dự án. Xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ đề án tăng cường năng lực bộ máy, đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường từ trung ương đến địa phương. Sau khi được phê duyệt sẽ nghiêm túc triển khai thực hiện. Triển khai các dự án xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề, các đại biểu đã quan tâm, tôi xin được báo cáo giai đoạn 2012-2016 kinh phí cho các dự án xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề cấp bố trí chỉ được 17,3% so với kinh phí được duyệt ban đầu, tương đương với khoảng 245 tỷ đồng. Vì sự thiếu hụt kinh phí, đến thời điểm này mới có 2 tiểu dự án hoàn thành và 9 tiểu dự án đang trong quá trình triển khai thực hiện.

Giai đoạn 2016 - 2020 Chính phủ tiếp tục đề xuất dự án khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường tại các làng nghề bị ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng được lồng ghép trong chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Kinh phí đề xuất cho giai đoạn này trên 2 nghìn tỷ đồng, trong đó trung ương chiếm trên 30%, còn lại ngân sách địa phương. Chúng tôi tin tưởng rằng, nếu bố trí đầy đủ nguồn kinh phí thì trong thời gian 3 năm còn lại, chúng ta có thể hoàn thành được mục tiêu khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường tại các làng nghề bị ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng.

Thứ ba, các đại biểu quan tâm về công tác đánh giá tác động môi trường, các công cụ bảo vệ môi trường trong các dự án đầu tư còn nhiều tồn tại và bất cập, hạn chế, đặc biệt quy trình thực hiện đánh giá tác động môi trường chưa thực sự chặt chẽ. Chúng ta quy định thực hiện đánh giá tác động môi trường để cơ quan có thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư, trong quá trình lập báo cáo đầu tư, cơ quan phê duyệt ĐTM không nắm được thiết kế chi tiết, chi tiết xây dựng thi công dự án, do dó báo cáo đánh giá chưa khả thi. Năng lực các tổ chức tư vấn đánh giá tác động môi trường còn nhiều hạn chế, đặc biệt đối với những dự án lớn có quy mô lớn và tính tự giác cao. Năng lực của hội đồng thẩm định đánh giá tác động môi trường cũng chưa đáp ứng yêu cầu, chưa có quy định chặt chẽ về trách nhiệm của tổ chức tư vấn và hội đồng thẩm định. Do đó, có nơi, có lúc việc thẩm định, đánh giá tác động môi trường còn rất lỏng lẻo, như một số đại biểu đã phản ánh, chưa có cơ chế tài chính để đảm bảo hoạt động này, công tác này chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra.

Công tác giám sát thực hiện đánh giá tác động môi trường còn yếu cả trong khâu trình lập, phê duyệt, xây dựng vận hành, thử nghiệm, vận hành chính thức và chấm dứt hợp đồng. Hiện nay, có một số đại biểu phản ánh có hiện tượng tiêu cực trong vấn đề thẩm định, đánh giá tác động môi trường cũng như công tác cấp phép xử lý chất thải, Bộ Tài nguyên và Môi trường xin ghi nhận và có kiểm tra, nếu phát hiện sẽ xử lý theo quy định pháp luật.

Về giải pháp khắc phục, trước tiên cần phải rà soát lại các luật có liên quan như chúng tôi đã báo cáo, liên quan đến đánh giá tác động môi trường, bổ sung quy định về chế độ trách nhiệm cho người đứng đầu tổ chức tư vấn và thành viên hội đồng đánh giá tác động môi trường. Tiến hành đánh giá tác động môi trường hai bước đối với các dự án có quy mô lớn và phức tạp. Tăng cường công tác thăm vấn cộng đồng theo hướng công khai thông tin cho chính quyền nhân dân địa phương, cho các hộ dân bị ảnh hưởng trực tiếp, các đơn vị cá nhân quan tâm và lắng nghe, có cơ chế để tiếp thu đầy đủ ý kiến. Quá trình thẩm định, đánh giá tác động môi trường phải nhận diện được các vấn đề phức tạp, nhạy cảm và đề xuất được mức độ giám sát sau khi phê duyệt. Trong trường hợp năng lực của tổ chức tư vấn và hội đồng thẩm định trong nước không đáp ứng được nhu cầu của các dự án lớn, công nghệ phức tạp sẽ tính đến việc sử dụng các tổ chức tư vấn và chuyên gia nước ngoài trình độ cao để thực hiện, tham gia vào quá trình đánh giá cũng như giám sát.

Nghiên cứu các cơ chế giám sát thực hiện đánh giá tác động môi trường bởi các tổ chức khoa học trong và ngoài nước. Nhân đây, tôi xin trình bày cụ thể thêm đại biểu Dương Trung Quốc và Phùng Văn Hùng đã đề cập đến vấn đề dự án lấp sông Đồng Nai. Quá trình báo cáo dự án này, mặc dù dự án đã được cơ quan tư vấn hoàn thành báo cáo tác động và được phê duyệt nhưng do bức xúc của dư luận nên bộ đã báo cáo và Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai đánh giá lại tác động của dự án này đối với dòng chảy của dòng sông. Cho đến nay, việc đánh giá đang được thực hiện bởi vì cần phải tính toán đến các thời điểm và các mùa khác nhau để đánh giá đầy đủ. Chính vì vậy, chưa hoàn thành được mà các đại biểu nói rằng việc này tiến hành chậm. Qua ý kiến này, cũng như đại biểu Dương Trung Quốc nói, so sánh với dự án thủy điện 6 và 6A cũng như đối với dự án này thì rõ ràng việc đánh giá tác động môi trường ở hai dự án này có vấn đề. Chúng tôi cho rằng cơ quan tư vấn của hai dự án đã không xem xét một cách thích đáng đến tác động của việc đổ các chất thải ra sông hoặc những tác động của dự án này sau khi xây dựng và có khả năng gây ra ô nhiễm nguồn nước, làm biến đổi dòng chảy v.v... Các dự án này không thỏa mãn việc sử dụng lưu vực sông theo Luật tài nguyên nước.

Một đại biểu đề xuất một vấn đề rất hay là bên cạnh công cụ quản lý về hành chính là kỹ thuật thì cần xem xét việc ứng dụng công nghệ kinh tế trong quản lý tài nguyên môi trường. Tiến sĩ Cường của đoàn Hà Nội đã nêu thì chúng tôi hoàn toàn đồng tình với ý kiến đồng chí Cường. Về nguyên tắc, khi chúng ta vận hành một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc sử dụng các công cụ kinh tế là một việc cần thiết và cho phép hạn chế tối đa các công cụ hành chính. Các công cụ kinh tế trong quản lý tài nguyên môi trường được thiết kế dựa trên nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền, trả đúng, trả đủ và theo cơ chế giá. Người hưởng lợi từ tài nguyên, môi trường cũng chi trả.

Đến thời điểm này, ở Việt Nam đã thực hiện một số công cụ kinh tế như thuế tài nguyên, thuế và phí môi trường, Quỹ bảo vệ môi trường. Tuy nhiên việc sử dụng các công cụ này vẫn còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao, chưa đúng với luật nền kinh tế thị trường. Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ nghiên cứu và hoàn thành các công cụ kinh tế đã có mở rộng phạm vi áp dụng, nâng cao hiệu quả, đồng thời đề xuất bổ sung các công cụ kinh tế khác theo kinh nghiệm các nước phát triển trên thế giới, phù hợp với thực tiễn Việt Nam như các quỹ bảo hiểm, quota phát thải, nhãn sinh thái và các tín chỉ cácbon.

Về sự cố môi trường miền Trung trong năm 2015, một đại biểu đã nêu có việc tiến hành thanh tra đối với Công ty Formosa và tháng 1/2016 thì có một luật. Trên thực tế, đoàn thanh tra đã tiến hành thanh tra Công ty Formosa trong tháng 6 và kết thúc trong tháng 9 và đến tháng 1/2016 thì mới ban hành luật cùng với các cơ sở thanh tra khác. Vào thời điểm này, chúng tôi đã kiểm tra và xác nhận, công ty Formosa đang trong quá trình thi công, xây dựng một số hạng mục công trình của dự án, trong đó có trạm dập cốc. Vì lý do đó, kết luận thanh tra chưa chỉ ra được các sai sót vì giai đoạn này đang tiến hành xây dựng công trình nên chưa có thể xem xét và phát triển được công nghệ.

Về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân. Tổ chức gây ra sự cố đã được chỉ ra rất rõ, thừa nhận trách nhiệm, xin lỗi nhân dân và Chính phủ Việt Nam, cam kết đền bù thiệt hại và đã thực hiện đền bù thiệt hại. Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các tổ chức, cá nhân có liên quan trong hệ thống quản lý nhà nước, các cấp kiểm điểm, xem xét trách nhiệm, sai phạm, mức độ kỷ luật nếu có, tinh thần nghiêm túc và không né tránh. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Chúng tôi đã tiến hành kiểm điểm ngay từ những ngày đầu khi xảy ra đối với tập thể Ban cán sự nhiệm kỳ 2010-2015. Bộ đã yêu cầu kiểm điểm với tinh thần nghiêm túc, không né tránh, từ các tổ chức, từ cấp dưới lên cấp trên. Kết quả cuối cùng, Ban cán sự chúng tôi đã nhận các hình thức và trình lên cấp trên theo quy định của công tác kiểm tra của Đảng để xem xét. Còn đối với cấp dưới, Ủy ban Kiểm tra đang phối hợp với chúng tôi để xem xét các dấu hiệu vi phạm và sẽ xử lý nghiêm theo quy định pháp luật. Khi có kết quả thông báo cấp trên và theo trình tự xử lý kỷ luật đối với cán bộ chúng tôi sẽ công bố đầy đủ đến nhân dân được biết.

Về vấn đề môi trường đã an toàn chưa. Ngày 22/8 tôi đã công bố, về cơ bản môi trường 4 tỉnh miền Trung đã đảm bảo an toàn dựa trên những kết quả điều tra, đánh giá rất bài bản, công phu, đã được thẩm định, xác nhận của các cơ quan tư vấn độc lập trong và ngoài nước, với sự tham gia của rất nhiều chuyên gia các viện hàng đầu của Việt Nam.

Ngày 22/9 khi công bố an toàn về hải sản, Bộ Tài nguyên và Môi trường một lần nữa trên cơ sở theo dõi thường xuyên, tập trung vào một số vùng nhạy cảm đã công bố là toàn bộ khu vực biển miền Trung với các chỉ số đáp ứng an toàn. Lần này một lần nữa tôi xin khẳng định là biển miền Trung an toàn, trên cơ sở phân tích từ trầm tích đáy, nước đáy, nước giữa và nước mặt trên toàn bộ vùng biển, có thể tất cả hoạt động du lịch, thể thao, nuôi trồng thủy sản hoàn toàn có thể tiến hành bình thường. Đương nhiên chúng ta phải theo quy chuẩn hướng dẫn cần thiết để có thể kiểm soát được vấn đề dịch bệnh và vấn đề về môi trường.

Còn vấn đề hải sản an toàn. Hiện nay Bộ Y tế đang tiến hành nhiều phân tích toàn diện và phối hợp với nhiều phòng phân tích của thế giới để phân tích. Đến nay chúng tôi rất tin tưởng Bộ Y tế sẽ công bố toàn bộ hải sản miền Trung sẽ an toàn. Hiện nay chúng tôi cũng khuyến cáo công bố của Bộ Y tế vào ngày 22/9, chúng ta cần phải theo hướng dẫn đó, kể cả vùng đánh bắt cũng như các loại hải sản đảm bảo an toàn. Đồng thời, các lô hàng thủy sản sau khi đánh bắt chúng ta cần phải thực hiện thông qua việc kiểm định của cơ quan có chức năng thẩm quyền, để đảm bảo sự an toàn cho người dân.

Quá trình đền bù thiệt hại, như chúng ta đã biết, ngay sau khi xảy ra sự cố Thủ tướng Chính phủ đã ban hành ngay quyết định để quan tâm giải quyết những vấn đề rất cấp thiết, thiết thực đối với người dân và với tinh thần không để một người dân nào đói và rét. Quan tâm rất toàn diện trong vấn đề liên quan đến người dân không có công ăn việc làm và các vấn đề an ninh, trật tự khác.

Tiếp theo đó, như chúng ta biết, sau khi Formosa đền bù, Chính phủ đã ra Văn bản 1880, dựa trên sự tổng hợp ý kiến thống nhất, khoa học của các bộ, ngành ở Trung ương và các địa phương, có tham khảo ý kiến của người dân về các đối tượng đền bù, các định mức đền bù, về cơ bản những người dân tham gia trực tiếp vào hoạt động ở biển, các người dân tham gia gián tiếp. Trong 7 nhóm đối tượng thiệt hại đã được xác định, tôi được biết 4 địa phương đang tiến hành rất khẩn trương tạm ứng kinh phí giai đoạn 1 là 3.000 tỷ và đồng chí Phó Thủ tướng đến kiểm tra và lắng nghe ý kiến của dân và lắng nghe ý kiến của các địa phương và đang tiếp tục hoàn thiện để xem xét thêm việc tính toán đền bù cũng như đảm bảo các đối tượng thiệt hại được đưa vào trong phạm vi để đền bù.

Một số ý kiến nêu rất đúng, hiện nay hệ sinh thái có bị ảnh hưởng. Với quá trình tự làm sạch môi trường biển, nhưng hệ sinh thái hồi phục cần phải thời gian và đương nhiên cần có sự hỗ trợ của bàn tay người. Chính phủ đã quan tâm bên cạnh việc đền bù, bồi thường thiệt hại trực tiếp thì việc hỗ trợ công ăn việc làm, trong đó việc tạo ra những công ăn việc làm mới trong quá trình phục hồi hệ sinh thái để tạo những cảnh quan như san hô, cỏ biển, tạo những nơi có sinh cảnh phong phú để thành một tài nguyên trong tương lai, cho một ngành dịch vụ về du lịch của tương lai. Những công việc này chúng ta đã có đầy đủ cơ sở đánh giá về các hệ sinh thái, mức độ tổn thương và chúng tôi đã chuyển để Bộ Nông nghiệp nghiên cứu xem có dự án cùng với người dân phục hồi lại môi trường biển và chính là tạo ra một công ăn việc làm mới.

Về vấn đề quản lý đất đai, các câu hỏi của đại biểu Đặng Ngọc Nghĩa, Nguyễn Thị Lan đã chất vấn các vấn đề, tôi xin được trả lời như sau. Đất đai có nguồn gốc từ các nông, lâm trường, đất đai hiện do các công ty nông, lâm nghiệp Ban quản lý rừng quản lý sử dụng là nguồn lực rất lớn nhưng chưa được khai phá hiệu quả. Quản lý đất đai nông, lâm trường còn hạn chế, bị buông lỏng trong một thời gian dài, dễ bị lấn chiếm, tranh chấp kéo dài không được giải quyết. Ranh giới giữa bản đồ thực địa cụ thể một số nông, lâm trường giao khoán, cho thuê, cho mượn, liên doanh, liên kết không đúng theo quy định.

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 11 giao trách nhiệm cho Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thanh tra Chính phủ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố có nông, lâm trường triển khai thực hiện các nhiệm vụ để đẩy nhanh tiến độ, sắp xếp, phê duyệt phương án tổng thể, sắp xếp đổi mới các công ty nông, lâm nghiệp. Cho đến nay đã có 27/39 tỉnh, thành phố đã phê duyệt phương án sắp xếp lại. Đã có 141.983 km ranh giới chiếm 88% đã cắm được 33.195 mốc giới chiếm khoảng 45%, đo đạc lập bản đồ địa chính được 632.000ha và cấp hơn 11,5 nghìn giấy chứng nhận, đã chuyển sang cho thuê theo quy định với diện tích trên 1,1 triệu ha, có 10 tỉnh đã hoàn thành cơ bản nhiệm vụ xác định ranh giới sử dụng đất. Qua rà soát, sắp xếp sẽ bàn giao lại cho các địa phương gần 500.000ha để quản lý, sử dụng hiệu quả hơn và giải quyết tình hình sử dụng đất của đồng bào các dân tộc thiểu số.

Về vấn đề cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, thực hiện Nghị quyết 30 đến năm 2012 chúng ta đã thực hiện nhiệm vụ này một cách quyết liệt, huy động cả hệ thống chính trị, đặc biệt là các cấp ủy Đảng, địa phương. Trong cả nước đã cấp được trên 95% giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, mặc dù chỉ còn khoảng 5% diện tích cần tiếp tục cấp giấy chứng nhận nhưng đây là vấn đề rất phức tạp, rất khó và cũng là một điểm nóng có nhiều khiếu kiện.

Việc cấp các giấy tờ này khó khăn là do cơ chế, chính sách thay đổi nhiều lần, nghĩa vụ tài chính áp dụng cho việc cấp giấy còn bất cập, chưa phù hợp với từng loại đối tượng mà luật pháp chưa cập nhật kịp thời. Trong số 5% này còn có nhiều trường hợp sinh sống, sử dụng đất trước ngày 15/12/1980 nhưng không có các loại giấy hợp lệ theo quy định do bị thất lạc. Nhiều trường hợp người có công như bộ đội, giáo viên nhưng giấy tờ chưa hợp lệ vì các quy định của chúng ta chưa tính hết. Có trường hợp vi phạm pháp luật đất đai như lấn chiếm, chuyển dụng mục đích trái phép, mua bán giao tay. Nhiều chủ đầu tư hoàn thành xây dựng bàn giao nhà xong đã chậm trễ trong việc nộp hồ sơ làm thủ tục cấp giấy chứng nhận và nhiều chủ đầu tư vi phạm. Cũng có những hộ thực hiện việc thế chấp giấy tờ nhưng không có đủ để cấp.

Quan điểm xử lý của Bộ Tài nguyên và Môi trường chúng tôi cho rằng, việc hoàn thành cấp 5% là một việc đặc biệt quan trọng, là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước. Bộ Tài nguyên và Môi trường và chính quyền các cấp phải tập trung hoàn thành, đảm bảo quyền lợi hợp pháp, lợi ích của người có đất và có nhà. Điều kiện để thực hiện các quyền của người sử dụng đất đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý về đất đai, giảm bớt khiếu nại, tố cáo và thúc đẩy thị trường bất động sản. Phải tập trung vào các địa bàn trọng điểm, nhất là các đô thị, khu vực phức tạp có nhiều khiếu kiện. Việc xử lý phải căn cứ theo từng nhóm đối tượng, theo quy định của pháp luật tại từng thời điểm. Phải đảm bảo công bằng đối với các đối tượng trong mọi thời kỳ và theo cơ chế chính sách. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử phạt hành chính. Việc chấp hành pháp luật liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận sử dụng đất và xử lý thật nghiêm đối với trường hợp cán bộ có hành vi nhũng nhiễu, công khai các doanh nghiệp vi phạm.

Về khai thác khoáng sản, các đại biểu Nguyễn Thái Học, Ngọ Duy Hiểu đã chất vấn liên quan đến các nhóm vấn đề và đặt ra rất nhiều bức xúc hiện nay liên quan đến vấn đề khai thác và sử dụng hiệu quả khoáng sản. Chúng tôi hoàn toàn đồng tình với những nhận định, đánh giá của các đại biểu. Đồng thời, chúng tôi cũng đề nghị trong thời gian tới, chúng tôi đã tiếp thu các vấn đề này và trình Thủ tướng Chính phủ để sửa đổi Nghị định 15 liên quan đến hướng dẫn thi hành Luật khoáng sản, trong đó đã để ý đến vấn đề tăng cường quản lý, khai thác khoáng sản, quản lý sản lượng khoáng sản cũng như bảo vệ các khoáng sản chưa khai thác. Đặc biệt, đối với vấn đề khai thác cát chúng tôi quan tâm giải quyết công tác quy hoạch, phối hợp giữa các địa phương có ranh giới liền nhau và cơ chế phối hợp của các địa phương cũng như là phải huy động các lực lượng, hệ thống chính trị và xác định trách nhiệm người đứng đầu của các địa phương này trong việc nếu để xảy ra khai thác trái phép. Đồng thời chỉnh đốn việc tổ chức đấu thầu chọn các doanh nghiệp có năng lực.

Liên quan đến tài nguyên nước và biến đổi khí hậu có các đại biểu Phùng Văn Cường, Nguyễn Thanh Phương, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Văn Thể, Nguyễn Tuấn Anh đã chất vấn liên quan nhiều nhóm vấn đề. Ngày hôm qua tôi đã trao đổi, hôm nay tôi xin được nói thêm một số vấn đề như sau:

Đối với tài nguyên nước và ứng phó biến đổi khí hậu vùng đồng bằng sông Cửu Long, tình trạng hạn hán thiếu nước do xâm ngập mặn như tôi đã nói nó xuất phát từ 2 nguyên nhân là vừa thiên tai vừa nhân tai do các nước ở thượng nguồn đóng góp vào đây, có thể nói, rất nghiêm trọng.

Trên thực tế chúng ta không bị động và chúng ta đã xây dựng quy hoạch chiến lược, chúng ta đã có các chương trình rất cụ thể đối với những khu vực này. Đồng thời, chúng ta đã có một nghiên cứu đánh giá tổng thể, mời các nhà khoa học, tổ chức quốc tế vào để đánh giá tổng thể, tổng hợp về tác động của các công trình thủy điện ở thượng nguồn đối với hạ nguồn bao gồm các nhà máy thủy điện từ Trung Quốc cho đến Lào, Campuchia, v.v... chúng ta đã tính đến. Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng để giúp Bộ Chính trị, nhà nước, cũng như phối hợp với Ủy ban sông Mê Kông và các tổ chức quốc tế để có thể đàm phán đấu tranh, chia sẻ lợi ích sử dụng nước ở đây.

Đối với vấn đề biến đổi khí hậu, đặc biệt chúng ta đã phê chuẩn thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu. Thủ tướng cũng đã lập tức phê duyệt kế hoạch triển khai thực hiện biến đổi khí hậu. Đồng thời, chúng ta phối hợp trong nhiều năm qua với các đối tác phát triển, đã hoàn thiện phiên bản 2 của Chương trình hỗ trợ mục tiêu quốc gia về biến đổi khí hậu, trong đó tập trung ba trụ cột: Thứ nhất các dự án đầu tư, với sự cam kết tài chính của các đối tác phát triển. Thứ hai, khung chính sách để hài hòa chính sách môi trường Việt Nam với quốc tế. Thứ ba, tăng cường năng lực, chia sẻ tri thức. Cùng với đó, Chính phủ đã phê duyệt Chương trình mục tiêu về biến đổi khí hậu và chương trình tăng cường xanh, tức là xác định nội lực để giải quyết các vấn đề về thích ứng biến đổi khí hậu, tập trung vào các vùng ưu tiên như đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên và một số khu vực Duyên hải miền Trung, vùng núi phía Bắc, dựa trên những tiêu chí ưu tiên như tôi đã trình bày ngày hôm qua.

Xin báo cáo với Quốc hội, về cơ bản những vấn đề tôi cần trình bày cũng đã được trình bày xong. Thời gian việc trả lời chất vấn quá ít. Mong muốn của tôi muốn được chia sẻ và trao đổi với các đại biểu rất nhiều, chính vì vậy cũng chưa thành công lắm trong việc trả lời. Tôi rất mong các đại biểu sẽ thông cảm và gửi các ý kiến tiếp tục đóng góp và đặt ra những câu hỏi đối với tôi. Tôi xin được tiếp thu các yêu cầu của đại biểu bất cứ lúc nào để trao đổi thông tin. Một lần nữa xin được cảm ơn các quý vị đại biểu. Cảm ơn Quốc hội.

Nguyễn Thị Kim Ngân - Chủ tịch Quốc hội

Trong phiên chất vấn đối với nhóm vấn đề thứ hai đã có 46 đại biểu Quốc hội đặt câu hỏi. Tại phiên chất vấn chiều hôm qua Bộ trưởng đã trực tiếp trả lời 11 đại biểu, 35 câu hỏi còn lại sáng hôm nay Bộ trưởng đã tổng hợp và trả lời theo nhóm vấn đề rất rõ ràng.

Qua phiên chất vấn và trả lời chất vấn cho thấy đây là nội dung được đại biểu Quốc hội và cử tri rất quan tâm, có tác động thiết thực đến đời sống và sản xuất của nhân dân, đến phát triển bền vững của đất nước. Nội dung chất vấn của các đại biểu Quốc hội đã tập trung vào các vấn đề sau:

Tình trạng ô nhiễm và xử lý ô nhiễm môi trường ở nông thôn, các khu, cụm công nghiệp, làng nghề, ô nhiễm do sản xuất than, vật liệu xây dựng, xử lý chất thải, đặc biệt là chất thải rắn.

Việc xả thải gây ô nhiễm môi trường ở các lòng sông, trong đó có sông Nhuệ, sông Đáy và sông Hậu.

Việc xử lý, khắc phục sự cố ô nhiễm môi trường biển liên quan đến dự án Formosa, trách nhiệm của tổ chức và cá nhân để xảy ra sự cố này.

Việc quản lý đất đai, quản lý, khai thác tài nguyên, khoáng sản, đặc biệt là khai thác cát, sỏi ở các lòng sông.

Vấn đề giải quyết ô nhiễm môi trường của các dự án điện đã, đang hoạt động và các dự án sẽ triển khai theo sơ đồ quy hoạch điện 7.

Việc triển khai các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn, hạn hán, trách nhiệm của tổ chức và cá nhân trong triển khai thực hiện hoạt động đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư, công tác kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm pháp luật về môi trường.

Các đại biểu Quốc hội đã đặt câu hỏi rất thẳng thắn, bám sát thực tiễn và bám sát các nhóm vấn đề đã chọn. Một số câu hỏi hơi dài và giải thích nhiều trước khi hỏi. Cũng như Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh thì Bộ trưởng Trần Hồng Hà cũng lần đầu tiên trả lời chất vấn sau khi nhận nhiệm vụ 6, 7 tháng, nhưng Bộ trưởng đã nắm rất rõ tình hình và đặc biệt là những thực trạng về môi trường mà nhân dân cả nước rất quan tâm, những vấn đề bức xúc thuộc lĩnh vực ngành tài nguyên, môi trường quản lý. Bộ trưởng đã trả lời thẳng thắn, trách nhiệm, làm rõ các vấn đề đại biểu đã nêu và hướng khắc phục của ngành trong thời gian tới. Tuy nhiên, việc trả lời có một số nội dung, nhất là thời gian đầu giờ chiều hôm qua Bộ trưởng giải trình còn dài và một số nội dung chưa rõ trách nhiệm của ai, ngành nào, địa phương nào ngoài nhận trách nhiệm của lãnh đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường trong sự cố Formosa. Đề nghị Bộ trưởng nghiêm túc tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, có những giải pháp tích cực, hiệu quả và kịp thời hơn để khắc phục những vấn đề bức xúc mà ngành đang phải đối mặt và tham mưu cho Chính phủ làm rõ một số vấn đề sau đây:

Thứ nhất, rà soát, đánh giá tổng thể thực trạng ô nhiễm môi trường, có giải pháp cụ thể, khả thi, hiệu quả để kiểm soát chặt chẽ tình trạng ô nhiễm môi trường tại nông thôn, các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề và việc ô nhiễm các lưu vực sông. Xác định rõ trách nhiệm và xử lý kiên quyết các cơ sở, các dự án đã gây ra ô nhiễm, kiểm soát ô nhiễm môi trường do sản xuất khai thác than, có giải pháp xử lý hiệu quả các chất phát thải của các nhà máy nhiệt điện than. Đẩy mạnh nghiên cứu hợp tác đầu tư xây dựng các công trình xử lý chất thải, đặc biệt chất thải rắn, đảm bảo an toàn môi trường.

Đối với dự án Formosa, có giải pháp giám sát chặt chẽ các tác nhân gây ô nhiễm môi trường, đảm bảo thực hiện đầy đủ các cam kết của dự án trước khi đi vào sản xuất. Phối hợp với các bộ, ngành, địa phương trong việc giải quyết hậu quả ô nhiễm môi trường do dự án gây ra. Thực hiện đồng bộ các biện pháp để tạo niềm tin lâu dài và ổn định đời sống của nhân dân trong vùng bị thiệt hại. Rà soát lại hoạt động đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đã đầu tư, đang đầu tư và sẽ đầu tư. Xác định rõ trách nhiệm trong việc đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đã gây ra ô nhiễm sau khi đi vào hoạt động và giải pháp kiểm soát chặt chẽ, nâng cao chất lượng việc đánh giá tác động môi trường.

Tăng cường rà soát, quản lý chặt chẽ hoạt động khai thác tài nguyên, khoáng sản, đặc biệt việc khai thác cát, sỏi ở các lòng sông. Tiếp tục rà soát đánh giá triển khai đồng bộ các biện pháp để ứng phó với biến đổi khí hậu chống xâm nhập mặn, hạn hán, tăng cường công tác quản lý nhà nước, làm rõ trách nhiệm của từng cấp, từng ngành trong việc đánh giá cấp phép thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường.

Với những vấn đề trên, đề nghị Bộ trưởng quan tâm tập trung tăng cường quản lý nhà nước có các giải pháp quyết liệt, hiệu quả, phối hợp tốt với các bộ, ngành, địa phương có liên quan trong việc giải quyết các vấn đề thuộc lĩnh vực mình phụ trách nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế, yếu kém và xử lý ngăn chặn những sai phạm hoặc tái phạm có thể xảy ra và báo cáo Quốc hội vào các kỳ họp sau.

Phiên chất vấn đối với nhóm vấn đề thứ hai xin dừng tại đây, đề nghị Quốc hội ghi nhận những nỗ lực của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà trong phiên chất vấn đầu tiên.

Sau đây xin mời Quốc hội chuyển sang phần chất vấn và trả lời chất vấn đối với nhóm vấn đề thứ ba đối với Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Về các vấn đề được chất vấn hôm nay đó là tình hình thực hiện chương trình cải cách giáo dục và đào tạo, đổi mới giáo dục cơ bản, toàn diện, đổi mới chương trình sách giáo khoa giáo dục phổ thông theo Nghị quyết 88 của Quốc hội. Thực hiện phân luồng cho học sinh cấp phổ thông để định hướng nghề nghiệp.

Vấn đề thứ hai, công tác quản lý chất lượng đào tạo, nhất là chất lượng đào tạo của các trường đại học do địa phương quản lý, giải pháp quản lý chất lượng giáo dục đại học, gắn đào tạo với quy hoạch, dự báo và sử dụng nguồn nhân lực.

Vấn đề thứ ba, việc thực hiện đổi mới phương thức thi và công nhận tốt nghiệp theo hướng gọn, nhẹ, hiệu quả, giảm áp lực và tốn kém cho xã hội. Giải pháp để ổn định việc tổ chức thi tốt nghiệp phổ thông và đại học trong giai đoạn 2016 - 2020. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ sẽ có 3 phút để báo cáo trước Quốc hội, trước khi được hỏi và trả lời chất vấn. Xin mời Bộ trưởng.

Phùng Xuân Nhạ - Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo

Trước khi họp kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã gửi báo cáo cho các đại biểu Quốc hội những vấn đề đại biểu Quốc hội quan tâm. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã gửi báo cáo trả lời các đại biểu chất vấn. Gần đây, trong phiên họp thảo luận về tình hình kinh tế - xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã lắng nghe 15 ý kiến của các đại biểu quan tâm đến vấn đề giáo dục, đào tạo. Bộ đã chủ động trả lời bằng văn bản cho các đại biểu. Trước phiên họp chất vấn này, theo yêu cầu Bộ Giáo dục và Đào tạo trả lời chất vấn nhóm nội dung thứ 3 với ba vấn đề lớn mà Chủ tịch Quốc hội nêu, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trả lời các đại biểu bằng văn bản.

Giáo dục đào tạo luôn được Đảng và Nhà nước, xã hội quan tâm. Đây là một cơ hội rất lớn nhưng cũng là một thách thức không nhỏ. Thời gian vừa qua ngành giáo dục đã rất cố gắng và đạt được những kết quả. Tuy nhiên, so với yêu cầu, nhiệm vụ và so với mong mỏi của cử tri, đồng bào, chúng tôi thấy vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, yếu kém. Hôm nay trong phiên chất vấn này, thay mặt cho hơn 1,4 triệu thầy cô trong lĩnh vực giáo dục, chúng tôi xin lắng nghe ý kiến của các đại biểu Quốc hội chuyển tải các ý kiến của cử tri để trao đổi và làm rõ, tiếp thu để chúng tôi cố gắng làm tốt hơn. Xin cảm ơn Quốc hội.

Nguyễn Thị Kim Ngân - Chủ tịch Quốc hội

Càng đi về các vấn đề chất vấn sau thì số đại biểu quan tâm nhiều hơn. Hiện nay đã có 58 đại biểu đăng ký chất vấn Bộ trưởng. Tôi xin lần lượt giới thiệu và mời đặt câu hỏi. Xin với đại biểu Quốc hội, để tiết kiệm thời gian chúng ta đặt câu hỏi ngắn, vì 59 người nên mỗi người nên đặt 1, 2 câu, nếu 3 câu thì rất nhiều Bộ trưởng không có đủ thời gian để trả lời trực tiếp mà phải trả lời bằng văn bản.

Dương Minh Ánh - TP Hà Nội

Câu thứ nhất, đề án dạy học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008 - 2020, với mục tiêu ban đầu của dự án là đến năm 2020 đa số thanh niên Việt Nam tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng và đại học có đủ năng lực ngoại ngữ, sử dụng độc lập, tự tin giao tiếp, học tập làm việc trong môi trường hội nhập đa ngôn ngữ, đa văn hóa, biến ngoại ngữ trở thành thế mạnh của người dân Việt Nam. Với tổng kinh phí gần 9.400 tỷ đồng giai đoạn 2008 - 2015 đã chi hết 5.000 tỷ đồng. Nhưng đến nay, sau gần 8 năm thực hiện, nhiều mục tiêu chưa đạt được như mong muốn. Với nhiều hạn chế và 4 nhóm giải pháp mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nêu trong Báo cáo với Quốc hội, Bộ trưởng có khẳng định với những giải pháp đó đến năm 2020 dự án này sẽ đạt được mục tiêu như mong muốn hay không, hay số phận của nó cũng giống như 5 dự án không đạt hiệu quả mà Chính phủ trình với Quốc hội lần này.

Câu hỏi thứ hai, trong Thông tư 01 của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam có quy định cụ thể bậc 1 tương đương với trình độ A1 dành cho học sinh tiểu học, bậc 2 tương đương với trình độ A2 dành cho học sinh trung học cơ sở, bậc 3 trình độ B1 với học sinh trung học phổ thông và bậc 4 là trình độ B2 với sinh viên cao đẳng đại học. Nhưng trong Thông tư liên tịch số 36 của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ quy định tiêu chuẩn, trình độ đào tạo, bồi dưỡng đối với giảng viên hạng 3 là phải có trình độ ngoại ngữ bậc 2- A2 tương đương với trình độ ngoại ngữ của học sinh trung học cơ sở.

Tương tự như vậy, tại Thông tư 21, Thông tư 22, Thông tư 23 của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ quy định về trình độ ngoại ngữ đối với giáo viên tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông là bậc 2, A2. Ở đây, có một nghịch lý là chúng ta đòi hỏi trình độ ngoại ngữ đối với học sinh, sinh viên cao hơn nhiều so với giảng viên, giáo viên. Xin hỏi Bộ trưởng với những quy định như vậy có đảm bảo tính logic và đảm bảo yêu cầu về đổi mới giáo dục trong thời kỳ hội nhập hay không? Câu hỏi này ngoài Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo trả lời, tôi cũng đề nghị Bộ trưởng Bộ Nội vụ cho biết thêm ý kiến. Tôi xin trân trọng cảm ơn.

Điểu Huỳnh Sang - Bình Phước

Đào tạo sau đại học đã đóng vai trò chính trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Phần lớn những cán bộ khoa học được đào tạo đều phát huy vai trò tích cực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, với thực trạng và yêu cầu thực tiễn cũng đã cho thấy việc đào tạo sau đại học ở nước ta trong nhiều năm gần đây còn nhiều bất cập, chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra về chất lượng đào tạo sau đại học cũng như chưa đáp ứng yêu cầu cung cấp chất lượng nguồn nhân lực trình độ cao cho đất nước.

Câu thứ hai, đội ngũ trí thức dân tộc thiểu số trong cơ cấu trí thức nói chung ngày càng đông đảo hơn với nhiều thành phần dân tộc hơn và sự tiếp cận với giáo dục, đào tạo chuyên môn nghiệp vụ với trình độ cao ngày được quan tâm và có sự gia tăng. Đặc biệt năm 2016, Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước cũng đã phong tặng 6 Phó giáo sư là người dân tộc thiểu số. Trong những năm qua thì việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực người dân tộc thiểu số có chất lượng cao chưa được coi trọng thể hiện qua chế độ, chính sách đãi ngộ, chính sách sử dụng nhân tài còn tản mạn, không kịp thời và còn lạc hậu so với thực tiễn. Vậy, Bộ trưởng có giải pháp gì trong thời gian tới nhằm đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nói chung và nguồn nhân lực người dân tộc thiểu số có chất lượng cao nói riêng trong phát triển kinh tế - xã hội cũng như để đạt được mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế bền vững. Xin cảm ơn Bộ trưởng.

Hồ Thị Minh - Quảng Trị

Theo tôi được biết hiện nay cả nước có khoảng 191.000 sinh viên tốt nghiệp ở các trường đại học trong cả nước sau khi tốt nghiệp không có việc làm. Trong khi đó, ở các địa phương còn nhiều các trường trung cấp, cao đẳng tiếp tục đào tạo và nhà nước đầu tư ngân sách cho công tác đào tạo và nuôi dưỡng bộ máy các trường rất lớn. Trong lúc nguồn lực sau đào tạo còn lãng phí những chưa có giải pháp. Tuy nhiên, các trường trung cấp, cao đẳng vẫn tiếp tục đào tạo một cách mất cân đối giữa cung và cầu, liệu rằng các em sinh viên sau khi tốt nghiệp có cơ hội có việc làm hay không. Xin hỏi Bộ trưởng có giải pháp gì để tránh lãng phí về kinh phí và nguồn lực đã được đào tạo, có nên duy trì cách thức đào tạo như hiện nay hay không? nếu có thì giải pháp của Bộ trưởng trong thời gian tới là gì? Xin cảm ơn Bộ trưởng.

Lê Minh Chuẩn - Quảng Ninh

Tôi có hai câu hỏi xin trao đổi với Bộ trưởng:

Câu hỏi thứ nhất, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam năm 2016 được Ngân hàng thế giới công bố sau khi khảo sát 12 nước ở châu Á, được xếp theo thang điểm 10 thì Việt Nam đạt 3,79 điểm trong đó Hàn Quốc đạt 6,91 điểm, Ấn Độ 5,76 điểm và Malaysia 5,59, còn xếp hạng Việt Nam chúng ta đứng thứ 11 trên 12 quốc gia châu Á được khảo sát. Đánh giá chung nhân lực nước ta yếu về chất lượng, thiếu về năng động và sáng tạo, thiếu kiến thức và kỹ năng làm việc theo nhóm, thiếu khả năng hợp tác và ngoại ngữ, như vậy sẽ không có cơ hội vươn xa ra tầm khu vực thậm chí thua ngay cả trên sân nhà. Vậy Bộ trưởng cho biết giải pháp nào để giải quyết những vấn đề này trong giai đoạn 2017-2020 và sau năm 2020.

Câu hỏi thứ hai, về việc phân luồng học sinh, giáo dục sau đào tạo đã tạo ra tình trạng thừa thầy, thiếu thợ. Vậy, Bộ trưởng có giải pháp như thế nào để khắc phục tình trạng này trong thời gian tới. Tôi xin hết ý kiến.

Nguyễn Trường Giang - Đắk Nông

Tôi xin gửi tới Bộ trưởng hai câu hỏi:

Câu hỏi thứ nhất, liên quan tới kỳ thi quốc gia. Việc công bố chính thức hình thức thi trắc nghiệm đối với hầu hết các môn trong kỳ thi trung học phổ thông năm 2016-2017 vào ngày 28/09/2016 có ảnh hưởng gì đến chất lượng kỳ thi năm 2017 trong khi phương án thi đã được chuẩn bị từ lâu. Việc chủ yếu thi trắc nghiệm có ảnh hưởng gì đến việc dạy và học ở cấp phổ thông năm học 2016-2017 và trong bối cảnh hình thức thi trắc nghiệm đối với hầu hết các môn thi bộ có biện pháp gì để tránh hiện tượng tiêu cực trong thi cử.

Câu hỏi thứ hai, Bộ trưởng có ý định chỉ đạo, xây dựng Đề án về đổi mới căn bản việc tổ chức, hình thức, phương pháp thi kiểm tra và kiểm định chất lượng giáo dục đào tạo? Nếu có thì bao giờ có thể ban hành và triển khai thực hiện và đến bao giờ thì bộ tham mưu cho Chính phủ ban hành được Đề án phân luồng và định hướng nghề nghiệp giáo dục phổ thông theo nhiệm vụ được giao trong Nghị quyết số 44. Tôi xin hết câu hỏi.

Cao Thị Xuân - Thanh Hóa

Tôi xin được chuyển đến Bộ trưởng 2 câu hỏi như sau:

Câu hỏi thứ nhất, tình trạng sinh viên tốt nghiệp ra trường không có việc làm, đây là vấn đề nhức nhối của xã hội. Tính đến nay có hơn 191 nghìn sinh viên ra trường không có việc làm, gây lãng phí cho dân, cho nước. Với trách nhiệm của Bộ trưởng, xin được hỏi trách nhiệm của Bộ trưởng để xảy ra tình trạng trên và giải pháp trong thời gian tới như thế nào?

Câu hỏi thứ hai, với tư cách là tân Bộ trưởng, Bộ trưởng có giải pháp và quyết tâm như thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo và giải tỏa bức xúc trong nhân dân về các vấn đề như dạy thêm, học thêm, vấn đề bạo lực học đường, đào tạo nguồn nhân lực phục vụ yêu cầu của chất lượng cải cách tư pháp và cuộc cách mạng công nghiệp? Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng.

Đỗ Ngọc Thịnh - Khánh Hòa

Chất lượng đội ngũ luật sư đang nhận được sự quan tâm của Nhà nước và cộng đồng xã hội bởi nó ảnh hưởng tới công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Ở nước ta hiện nay có tới 54 cơ sở đào tạo cử nhân luật, hàng năm có tới hàng chục nghìn cử nhân luật được ra lò cung cấp cho nhà nước và xã hội. Xin hỏi Bộ trưởng:

Một, đất nước ta liệu có cần tới 54 cơ sở đào tạo cử nhân luật như vậy không? Cơ sở lý luận và thực tiễn nào Bộ Giáo dục và Đào tạo cấp phép cho nhiều cơ sở đào tạo cử nhân luật như vậy. Khả năng kiểm soát chất lượng đào tạo cử nhân luật của Bộ Giáo dục và Đào tạo về vấn đề này như thế nào?

Hai, chất lượng đội ngũ luật sư được xác định ngay từ khi được đào tạo cử nhân luật. Đề nghị Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể trao đổi thêm về các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo cử nhân luật và đào tạo nguồn luật sư để góp phần đảm bảo nâng cao chất lượng cho đội ngũ luật sư có khả năng đáp ứng các nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của xã hội và cộng đồng xã hội, đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Xin trân trọng cảm ơn.

Nguyễn Thị Kim Thúy - TP Đà Nẵng

Tôi xin gửi tới Bộ trưởng một vấn đề sau đây. Đề nghị Bộ trưởng cho biết những cuốn sách công nghệ giáo dục được đưa vào giảng dạy ở trường tiểu học từ trước khi có Nghị quyết số 88 của Quốc hội về đổi mới chương trình sách giáo khoa giáo dục phổ thông có được Hội đồng thẩm định quốc gia thẩm định và kiến nghị Bộ trưởng cho sử dụng hay không? Nếu có thì Hội đồng thẩm định đã thẩm định khi nào và Hội đồng gồm những ai? Nếu không tại sao một bộ sách gây nhiều tranh cãi vẫn ung dung vào trường học từ 16 tỉnh với 50 ngàn học sinh nay lên đến 48 tỉnh. Trách nhiệm của Bộ trưởng trong việc này như thế nào?

Nếu cho rằng sách này được đưa vào trường theo Nghị quyết số 88 của Quốc hội thì tại sao chưa có chương trình mới mà đã có sách giáo khoa mới. Xin hết. Cám ơn Bộ trưởng.

Phùng Xuân Nhạ - Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo

Tôi chân thành cám ơn các câu hỏi của đại biểu về những vấn đề mà đại biểu quan tâm. Tôi xin phép trả lời trực tiếp và ngắn gọn vào những vấn đề đại biểu đang quan tâm, còn những vấn đề chi tiết có tính chất chuyên môn tôi xin phép Chủ tịch Quốc hội cũng như đại biểu Quốc hội là được gửi bằng văn bản.

Câu hỏi thứ nhất của đại biểu Dương Minh Ánh đoàn Hà Nội về Đề án 2020, đề án ngoại ngữ quốc gia. Đại biểu có hỏi các mục tiêu đặt ra trong đề án được xây dựng từ năm 2008 đến nay và đến năm 2020 có đạt mục tiêu không? Tôi trả lời luôn là không với lý do như sau:

Trước hết, dậy và học ngoại ngữ là vấn đề rất lớn, có tính chất lâu dài. Đây là nhiệm vụ không chỉ trước kia, bây giờ và còn phải tiếp tục liên quan đến rất nhiều nhóm đối tượng khác nhau. Thứ hai, để biết được thành thạo các mục tiêu như đề án mong muốn cần phải có thời gian và chi phí rất lớn. Khi xây dựng đề án chúng tôi rất cố gắng để đưa ra lộ trình và quyết tâm cao để thực hiện các mục tiêu như mong muốn. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai gặp nhiều vấn đề về thời gian, về kinh phí, về chuẩn bị nhưng với trách nhiệm của Bộ Giáo dục và Đào tạo và cá nhân Bộ trưởng, chúng tôi nhận trách nhiệm. Khi xây dựng các đề án, dự án không chỉ đối với 2020 mà các đề án lớn khác phải hết sức thiết thực, hết sức khả thi, bám sát vào yếu tố để thực hiện mục tiêu này.

Với quan điểm như vậy, gần đây chúng tôi cho rà soát để điều chỉnh cách tiếp cận, sau đó mới đến mục tiêu. Cách tiếp cận Đề án 2020 không phải là đề án chịu trách nhiệm đào tạo toàn bộ các vấn đề về ngoại ngữ cho tất cả nhóm đối tượng phải biết. Nếu đặt vấn đề như vậy là không khả thi. Đề án 2020 Chính phủ sẽ chỉ đạo để tập trung vào từng tổ chức, từng cá nhân, từng đơn vị khó làm, đây có vấn đề định hướng, dẫn dắt và có tính chất là trục. Cụ thể:

Một là chương trình nội dung phải thống nhất, được biên tập, biên soạn thành hệ thống, trong đó có tính đến hội nhập quốc tế. Tránh tình trạng biên soạn theo năng lực của các thầy cô.

Hai là tập trung vào đào tạo đội ngũ giáo viên, đây là việc ưu tiên hàng đầu. Thực tế vừa qua chúng tôi có kiểm điểm lại thấy khâu chuẩn bị về giáo viên chưa thực sự kỹ khi ban hành, dẫn đến trong quá trình tổ chức thực hiện gây khó khăn cho địa phương, đặc biệt là các cơ sở giáo dục đào tạo, chúng tôi nghiêm túc rút kinh nghiệm việc này.

Ba là về những phương thức để tổ chức giảng dạy mà nhiều người được hưởng lợi, đặc biệt đặt vấn đề đào tạo suốt đời về ngoại ngữ, không nhất thiết cứ phải bằng cấp mà ai cũng có thể tham gia học ngoại ngữ, trong đó có tiếng Anh. Mọi người đều có quyền và đều được hưởng thành quả của hội nhập. Vì vậy, chúng tôi tập trung vào những phương thức thiết kế những chương trình học và phương thức đào tạo theo hướng trực tuyến từ xa. Còn lại các địa phương, các cơ sở giáo dục và người dân phải phát huy. Chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh đến xã hội hóa, xã hội hóa phải là tâm điểm để tạo ra môi trường, động lực, không phải tất cả trông chờ vào đề án này mà chúng ta đạt được mục tiêu như đề ra.

Với tinh thần tiếp cận đó, chúng tôi điều chỉnh lại và tới đây chúng tôi trình Thủ tướng Chính phủ về điều chỉnh và đề án này. Tuy nhiên, phải công bằng nhìn nhận lại trong thời gian đầu chúng tôi thực hiện đề án này đạt được nhiều kết quả về xây dựng các khung bậc và các chương trình, nội dung và triển khai ở các địa phương. Được là bài học kinh nghiệm thay bằng phân kinh phí cho các tỉnh, các địa phương thì bây giờ tập trung vào những việc liên quan đến chuyên môn. Còn các địa phương, các tỉnh, các cơ sở trên cơ sở đó có kế hoạch riêng. Đặc biệt, chúng tôi nhấn mạnh không chỉ tập trung đào tạo, giảng dạy cho những sinh viên nhưng phải toàn dân thông qua hình thức tạm gọi là xóa mù chữ. Việc học để giao tiếp, học để biết không quá khó, chúng tôi nhấn mạnh cái đó, để tạo ra một xã hội học tập về tiếng Anh là động lực.

Tinh thần như thế chúng tôi xin nhận trách nhiệm để điều chỉnh và đây là dự án lớn bước đầu không phải đến năm 2020 - 2035 chúng ta phổ cập nói được tiếng Anh.

Kinh nghiệm của Malaixia, đặc biệt là của Singapo, từ khi giải phóng họ đã có một nền cũng tương đối tốt, đến khi đạt được trình độ cả nước nói tiếng Anh trung bình mất 38 năm, không thể ngày một ngày hai được. Nhưng nếu chúng ta không có quyết tâm, không có lộ trình, bước đi, chúng ta sẽ khó có thể đạt được mục tiêu và cũng rất lãng phí nguồn lực.

Thứ hai, về hạn, chúng tôi cũng nhìn nhận lại và rút kinh nghiệm. Thực tế, muốn yêu cầu học sinh cao hơn thực sự thì thầy phải cao hơn, đó là nguyên tắc. Không chỉ đối với bậc học cấp 1 tiếng Anh mà tất cả các bậc học. Tới đây giáo viên đại học, trong các hội đồng công nhận Phó giáo sư, Tiến sỹ cũng phải tính đến việc đó, phải cao hơn mới đánh giá được người thấp hơn chứ không thể ngược lại. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận vào thực tế của ta hiện nay, nếu đưa ra một chuẩn cao, báo cáo đại biểu Ánh, học sinh học ngoại ngữ nhanh hơn mà các thầy, các cô và cán bộ, viên chức cũng không phải ngày một ngày hai học được. Bước đầu như vậy, nhưng tới đây chúng tôi sẽ làm việc với Bộ Nội vụ cũng phải điều chỉnh điều này và không nên cứng nhắc. Đối với các giáo viên, khi tuyển vào đương nhiên tiếng Anh phải cao hoặc ngoại ngữ phải cao. Đối với nhóm thầy, cô hay cán bộ còn có điều kiện phát triển thì phải có lộ trình cho họ, tránh tình trạng đưa ra một cái áp luôn, đó là không khả thi, dẫn đến tình trạng mua bán chứng chỉ.

Đối với những nhóm thầy, cô, đối tượng không còn điều kiện dài cũng không nên ép. Như vậy, khi đưa ra một chính sách có lộ trình và đúng phù hợp với nhóm đối tượng tôi tin rằng khả thi và việc này Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ bàn và trao đổi với Bộ Nội vụ để phối hợp làm sao cho khả thi, có lộ trình.

Câu hỏi tiếp theo của đại biểu Minh đoàn Quảng Trị. Hiện nay có 1.000 sinh viên không có việc làm. Đây cũng là một số liệu chúng tôi rất chia sẻ.

Báo cáo với đại biểu Minh, khi tôi nhận nhiệm vụ này, tôi rất trăn trở, bởi vì sứ mạng của các trường đại học trong đó đào tạo ra phải có việc làm. Tuy nhiên, không phải sinh viên nào tốt nghiệp ra đều có việc làm, ngay cả Harvard cũng vậy, cũng phải có một thời gian, phải có một độ để tiếp cận thực tiễn và thực tiễn phải đào tạo, bổ sung mới thích ứng với điều kiện thị trường lao động chứ không phải đào tạo lại, đào tạo bổ sung. Tuy nhiên, nội dung kiến thức, kỹ năng ở nhà trường hết sức quan trọng để sinh viên ra trường không phải mất thời gian, nếu như phải đào tạo lại. Ở đây không chỉ thuần túy đào tạo lại mà rất lãng phí không chỉ về tiền bạc, thời gian mà lãng phí rất nguy hiểm, bởi vì khi họ đã được đào tạo những thứ không có ích đến bây giờ phải học những thứ có ích thì cũng khó khăn đối với sinh viên. Chúng tôi rất ý thức với điều đó.

Báo cáo với đại biểu cũng như Quốc hội, hiện nay chúng ta khoảng 300 nghìn sinh viên trong các trường đại học ra trường hàng năm. Theo thống kê các trường đại học chúng tôi yêu cầu phải báo cáo, tới đây chúng tôi phải kiểm tra thì khoảng 80% là có việc làm, như vậy mỗi một năm đã thất nghiệp 60 nghìn em, chỉ cần 5 năm là 300 nghìn, đây là con số rất lớn. Tuy nhiên, cũng phải nhìn kỹ vào số sinh viên có việc làm ngay hay sau khi tốt nghiệp rơi vào các nhóm trường top trên là những trường có bề dày, những trường có kinh nghiệm còn phần lớn sinh viên chưa có việc làm hoặc thất nghiệp lâu rơi vào những trường có điều kiện đảm bảo chất lượng yếu và phần lớn các trường mới thành lập, đây là vấn đề đặt ra, chúng tôi nhận thức được điều này và đang cố gắng sửa. Báo cáo các đồng chí, tới đây chúng tôi làm rất mạnh về điều chỉnh mạng lưới các trường đại học, áp dụng các chuẩn đảm bảo chất lượng trường và ngành để làm sao những trường mới mở hay có điều kiện yếu kém thì hỗ trợ họ theo hướng hoặc thành phân hiệu hoặc thành một trường thành viên của trường đại học lớn. Ví dụ như An Giang là trường của địa phương nhưng chúng tôi rất đồng ý hoặc trở thành một trường thành viên hoặc phân hiệu của Trường Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh như vậy để có sự liên kết tốt.

Một số trường tôi đánh giá là Lào Cai không nâng cấp các trường trung cấp hay cao đẳng lên thành đại học mà lãnh đạo tỉnh quyết định một phân hiệu trước xong đó phát triển lên thì tôi cho rằng cách thức như vậy hiệu quả mà cũng phải đặt vấn đề về chất lượng các trường đại học không nhất thiết là học sinh đại học phải học gần nhà mà chúng tôi đặt vấn đề hướng tới là quy hoạch lại mạng lưới và hình thành nhóm các loại trường đối với đại học tập trung ở trung ương và cùng lắm là vùng miền chứ không ở địa phương vì quy mô quá nhỏ, lực lượng phân tán, chất lượng không đảm bảo. Số sinh viên thất nghiệp chúng tôi rất trăn

Nguồn VietnamNet: http://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/quoc-hoi/toan-van-phien-chat-van-bo-truong-tn-mt-va-bo-truong-gd-dt-340176.html