Tìm hiểu về bệnh ung thư phổi

(VEN) - Ung thư phổi là nguyên nhân gây tử vong cao nhất trong những bệnh nhân ung thư ở nam giới. Tỷ lệ này sẽ không tăng nữa ở nam giới, nhưng ở nữ giới thì tỷ lệ này ngày càng tăng có thể chiếm tỷ lệ tử vong hàng đầu trong các bệnh ung thư ở nữ giới tại các nước công nghiệp hóa trong những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX do phong trào hút thuốc ở nữ giới gia tăng.

Mô tả cấu trúc phổi Cơ thể có 2 lá phổi ở trong lồng ngực. Lồng ngực được tạo bởi xương ức, các xương sườn và cơ hoành ngăn cách ngực và các tạng trong ổ bụng. Khi hít vào, không khí vào phổi qua khí quản. Khí quản phân chia làm 2 đường chính gọi là phế quản, mỗi phế quản đi vào một phổi. Phế quản tiếp tục phân chia những nhánh nhỏ thành một hệ thống rộng lớn bao gồm những tiểu phế quản. Sự phân chia của phế quản đi kèm với hệ mạch máu, cuối cùng là những túi nhỏ (phế nang) được phân bố khắp phổi. Tổng diện tích các phế nang tương đương với diện tích của một sân tennit 200m2. Chức năng của phổi Phổi hấp thu oxy từ không khí và oxy được sử dụng ở các tế bào của cơ thể. Trong phế nang, ôxy của khí hít vào được hấp thu vào máu và khí cacbonic được thải từ máu vào không khí. Khí thở ra mang cacbonic thải ra ngoài cơ thể. Ung thư phổi là gì? Giống như các bệnh ung thư, ung thư phổi bắt đầu khi một hoặc nhiều tế bào phân chia một cách không kiểm soát được. Sau khoảng 20 lần phân chia như vậy hình thành một khối tế bào nhỏ đường kính khoảng 1cm. Nếu các tế bào này tiếp tục nhân lên thì khối này tiếp tục gia tăng về kích thước. Ở một số giai đoạn của quá trình này, những tế bào có thể rời khỏi khối u ban đầu và lưu hành đến các phần khác của cơ thể và phát triển thành những khối u mới, Những khối u ở phổi có thể gây chảy máu, làm tắc nghẽn đường hô hấp, gây ho, khó thở hay nhiễm khuẩn. Khối u có thể phát triển ra thành ngực gây đau. Tuy nhiên, đôi khi ung thư phổi có thể phát triển to và bệnh nhân không có triệu chứng. Các triệu chứng Triệu chứng hay gặp nhất của ung thư phổi là ho kéo dài. Thở ngắn, ho có đờm lẫn máu và đau ngực cũng có thể là dấu hiệu chỉ điểm của ung thư phổi. Một thời gian sau bệnh nhân có thể gầy sút, mệt mỏi, thở nông, khàn giọng, khó nuốt, đau xương, thở khò khè và tràn dịch màng phổi. Cần chú ý rằng có khoảng 13% bệnh nhân không biểu hiện bất cứ một triệu chứng nào như trên khi khối u của họ bị phát hiện Chẩn đoán Có nhiều kỹ thuật được sử dụng để phát hiện ung thư phổi và xác định loại ung thư và đề ra phương pháp điều trị thích hợp. Ung thư phổi thường được phát hiện đầu tiên bằng X-quang lồng ngực. Chụp cắt lớp vi tính lồng ngực có thể xác định chính xác hơn vị trí của khối u, kích thước và biết được khối u đã phát triển ra ngoài phổi hay chưa. Có thể chẩn đoán bằng cách lấy một mảnh nhỏ (sinh thiết) ở vùng khác thường của phổi. Phương pháp sinh thiết thông thường nhất là dùng ống nội soi phế quản, là một ống nhỏ, mềm, dẻo đưa qua mũi hay miệng sau khi đã gây tê, đi qua khí quản vào phổi. Phương pháp này được sử dụng trên 80% bệnh nhân và 2/3 có kết quả sinh thiết dương tính. Xét nghiệm đờm tìm tế bào ung thư chỉ có 1/3 số ca có kết quả dương tính. Nếu khối u ở rìa phổi hay ở xa phế quản thì nội soi phế quản hay xét nghiệm đờm có thể không phát hiện được. Phương pháp chẩn đoán tiếp theo Dùng 1 kim nhỏ xuyên qua thành ngực vào vùng bất thường sau khi đã gây tê tại chỗ. Phương pháp này chẩn đoán được trên 90% bệnh nhân. Đôi khi cần thiết phải tiến hành sinh thiết thêm nếu các phương pháp trên không thành công. Những mẫu sinh thiết lấy được, được nhuộm và soi dưới kính hiển vi quang học. Các loại ung thư phổi Ung thư phổi được phân loại theo tế bào bao gồm: Loại ung thư tế bào biểu mô dạng vảy: phát triển từ những tế bào nằm ở tiểu phế quản. Đây là loại ung thư phổi thường gặp nhất, chiếm xấp xỉ 41% các ca ung thư phổi. Loại ung thư này liên quan chặt chẽ với hút thuốc. Khối u có thể phát triển vào trong lòng phế quản gây bít tắc, có thể phát triển to lên và lan tới thành ngực và các hạch vùng. Loại ung thư tế bào biểu mô dạng vảy có tốc độ di căn thấp hơn các loại ung thư phổi khác và nói chung có thể phát hiện sớm và đáp ứng tốt với điều trị. Loại ung thư biểu mô tuyến: phát triển từ các tuyến phế quản ở trong màng tế bào nhày và thường xuất phát ở vùng ngoại vi của phổi. Loại ung thư này chiếm 29% ung thư phổi. Một người không nghiện thuốc lá mà bị ung thư phổi thì thường là loại ung thư này. Loại ung thư biểu mô tế bào nhỏ: chiếm 15% trong ung thư phổi. Loại ung thư phổi này có liên quan chặt chẽ với việc hút thuốc lá. Tuy nhiên, loại ung thư này di căn sớm và triệu chứng ban đầu nghèo nàn nên khi được chẩn đoán xác định thì ung thư đã di căn. Loại ung thư biểu mô tế bào lớn: Thường phát triển vào lòng phế quản và có đặc điểm là các tế bào tròn, lớn. Loại ung thư này chiếm 11% trong ung thư phổi. Nguyên nhân Hút thuốc lá là nguyên nhân chính gây ung thư phổi: 90% bệnh nhân ung thư phổi do hút thuốc lá. Mặc dù còn 4% bệnh nhân bị ung thư phổi mà không hút thuốc, nhưng vài người trong số họ đã hít một số lượng đáng kể khói thuốc lá (hít khói của người hút thuốc lá). 90% bệnh nhân ung thư phổi đã hút hơn 10 điếu thuốc lá/ngày trong 20 năm Những công nhân tiếp xúc với bụi silic có nguy cơ cao bị ung thư phổi. Nguy cơ này sẽ tăng lên nhiều lần nếu bệnh nhân có hút thuốc lá. Theo số liệu của bảng dưới đây thì nguy cơ bị ung thư phổi do hút thuốc lá cao hơn nhiều do tiếp xúc với bụi silic. Chắc chắn là 2 tác nhân trên đều có thể tránh được. Những tiếp xúc nghề nghiệp khác liên quan tới ung thư phổi bao gồm tiếp xúc với quá trình luyện thép, niken, crôm và khí than Tiếp xúc với tia phóng xạ có nguy cơ bị các bệnh ung thư trong đó có cả ung thư phổi. Những công nhân mỏ uranium, fluorspar và hacmatite có thể tiếp xúc với tia phóng xạ do hít thở không khí có chứa khí radon. Có nhiều cuộc thảo luận về vai trò của ô nhiễm không khí trong sự gia tăng ung thư phổi. Nói chung do tỉ lệ hút thuốc lá tăng Ung thư phổi ở thành thị cao hơn ở nông thôn. Sau yếu tố hút thuốc lá, có một số nhỏ dân thành thị có nguy cơ ung thư phổi liên quan đến các chất gây ô nhiễm không khí. Giống như các bệnh ung thư khác, chúng ta chưa biết được nguyên nhân gây bệnh ở các bệnh nhân. Chúng ta không ai biết được tại sao một người nghiện thuốc lá bị ung thư phổi mà người khác lại không bị. Nghiên cứu về lĩnh vực này hiện nay đã có bước tiến đáng kể và đang xác định được những gen có liên quan đến ung thư phổi. Các phương pháp điều trị Phẫu thuật loại bỏ khối u Có hiệu quả nhất khi khối u còn nhỏ và chưa có di căn. Bệnh nhân có thể trạng tốt để phẫu thuật. 20% bệnh nhân được điều trị theo phương pháp này. Những bệnh nhân được phẫu thuật lấy toàn bộ khối u có thời gian sống thêm lâu dài Điều trị tia xạ Phương pháp này được áp dụng cho 35% bệnh nhân. Mục đích là phá hủy khối u khi nó còn nhỏ (thường có đường kính 6cm) và không có di căn. Đối với những khối u lớn thì nó làm giảm sự phát triển của khối u. Phương pháp điều trị này kéo dài đời sống của bệnh nhân nhưng ít khi chữa khỏi bệnh Phân loại nguy cơ bị ung thư phổi Không hút thuốc, không tiếp xúc với bụi silic: 1.0 Không hút thuốc, có tiếp xúc với bụi silic: 5.2 Hút thuốc, không tiếp xúc với bụi silic : 10.9 Hút thuốc, có tiếp xúc với bụi silic: 53.3 Điều trị hóa chất Có tác dụng tốt ở hầu hết bệnh nhân ung thư phổi loại tế bào nhỏ và đôi khi ở những loại ung thư phổi khác. Những tiến bộ gần đây về hóa trị liệu đã làm giảm đáng kể những tác dụng phụ so với trước đây. Điều trị hỗ trợ Chỉ áp dụng cho khoảng 1/3 bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn muộn không điều trị được bằng các phương pháp kể trên, bao gồm chăm sóc bệnh nhân, điều trị triệu chứng và làm giảm đau. Cần có một chế độ ăn thích hợp cho bệnh nhân. Tài liệu "Chế độ ăn và dinh dưỡng đối với ung thư" hướng dẫn về điều này. Nghỉ ngơi, chăm sóc về mặt y tế và giải trí đôi khi giúp ích cho bệnh nhân Có một số phương pháp điều trị ung thư phổi không được công nhận bao gồm dùng thuốc tẩy, chế độ ăn kì quái và tiêm các thuốc miễn dịch có khả năng gây nguy hiểm cho bệnh nhân và mất thì giờ, mất tiền cần phải tránh. Triển vọng Ở hầu hết các bệnh nhân ung thư, kết quả điều trị tốt nhất khi ung thư được phát hiện sớm và điều trị kịp thời. Ví dụ có 50% bệnh nhân được phẫu thuật lấy bỏ khối u sống thêm được 5 năm. Tuy nhiên số bệnh nhân này còn ít. Trong tất cả các bệnh nhân bị ung thư phổi, chỉ có 10% sống thêm được 5 năm sau khi được chẩn đoán Hiện nay có nhiều phương pháp điều trị mới bao gồm đưa chất đồng vị phóng xạ vào phế quản, điều trị bằng tia xạ, điều trị bằng laser, các thuốc hóa chất mới, những nghiên cứu sinh học phân tử đang được tiến hành và đã thu được một số kết quả Phòng bệnh Yếu tố quan trọng nhất trong việc phòng chống bệnh ung thư phổi là làm giảm số người hút thuốc lá. 90-96% bệnh nhân ung thư phổi có liên quan trực tiếp với hút thuốc lá và do vậy có thể phòng tránh được. Cải thiện vệ sinh công nghiệp và tránh tiếp xúc với bụi silic cũng giúp cho việc phòng chống ung thư phổi. Tỷ lệ chết giảm xuống ở bệnh ung thư phổi sau khi ngừng hút thuốc lá./. BSGĐ

Nguồn VENO: http://www.ven.vn/news/detail/tabid/77/newsid/10017/seo/tim-hieu-ve-benh-ung-thu-phoi/language/vi-vn/default.aspx