Thuốc điều trị bệnh Parkinson

Parkinson là một bệnh do hậu quả của những thương tổn thoái hóa một số nhân xám ở nền não kiểm soát các hoạt động bán tự động và tự động. Sự thương tổn của nhân này sẽ trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng tới hệ vận động và gây những triệu chứng ngoài bó tháp như: mất các động tác cần có sự tham gia của ý muốn; giải phóng các động tác tự động hoặc bất thường gây run; tăng trương lực cơ gây tư thế cứng nhắc. Hiện nay, người ta nhận thấy trong bệnh Parkinson có sự giảm sút rất rõ rệt hàm lượng dopamin - một chất trung gian hóa học quan trọng trong chức phận của các cấu trúc ngoài bó tháp như nhân đuôi, nhân bèo, liềm đen. Sự giảm sút hàm lượng dopamin của những nhân xám đó dẫn tới hậu quả làm tăng trương lực hệ phó giao cảm trung ương. Vì vậy trong điều trị bệnh Parkinson, người ta hay dùng hai loại thuốc chính là các thuốc cường hệ dopaminergic và các thuốc hủy hệ phó giao cảm trung ương.

Các thuốc cường hệ dopaminergic Levodopa (l-dopa, dihydroxyphenyl, alanin, DOPA) Vì dopamin không qua được hàng rào máu não nên trong điều trị phải dùng chất tiền thân của nó là l-dopa có khả năng thấm vào được thần kinh trung ương. Tại đó, l-dopa bị khử carboxyl để thành dopamin. Levodopa có tác dụng lên tất cả các triệu chứng của bệnh: tăng trương lực, mất vận động, run, rối loạn đi lại. Hiện được coi là thuốc có tác dụng tốt nhất. Tuy nhiên, kết quả không giống nhau giữa các người bệnh và ngay trên cùng một bệnh nhân thì kết quả cũng có thể khác nhau theo từng thời gian. Do phần lớn levodopa không qua được hàng rào máu não nên lượng dopa và cả noradrenalin ở ngoại biên tăng cao, là nguyên nhân gây ra các tai biến. Có thể gặp trên 90% người dùng thuốc bao gồm: rối loạn tiêu hóa (nôn, chán ăn); động tác bất thường xuất hiện ở miệng - lưỡi - mặt, các chi, cổ, gáy (người nhiều tuổi ít gặp hơn); rối loạn tâm thần (trầm cảm, lú lẫn, hoang tưởng); rối loạn tim mạch (tụt huyết áp khi đứng, loạn nhịp tim, suy mạch vành, suy tim). Levodopa được chỉ định nghiêm ngặt và có sự theo dõi tại bệnh viện, uống liều tăng dần, chia làm nhiều lần trong ngày và uống sau bữa ăn. Não bình thường. - Não của người bệnh Parkinson. Amantadin Amantadin là dẫn xuất tổng hợp, lúc đầu dùng để chữa cúm (A2 - influenza), tình cờ lại thấy có tác dụng tốt với bệnh Parkinson. Thuốc làm giải phóng dopamin từ ngọn các dây thần kinh hệ dopaminergic cả ở ngoại biên và cả ở trung ương. Nồng độ dopamin trong các nhân xám trung ương tăng cao. Trên bệnh Parkinson, amantadin làm giảm nhanh chứng mất vận động nhưng ít làm thay đổi chứng run và tăng trương lực cơ; Tác dụng kém levodopa nhưng tốt hơn thuốc hủy cholinergic. Tác dụng tối đa xuất hiện sau vài ngày, nhưng giảm dần sau khoảng 6 - 8 tháng dùng liên tục; Có tác dụng hiệp đồng với levodopa. Tác dụng không mong muốn thường gặp khi dùng thuốc là rối loạn tiêu hóa, mất ngủ, giật cơ, phù chi dưới kháng với thuốc lợi tiểu. Dùng lâu có thể thấy xuất hiện những mảng tím ở chi dưới do catecholamine được giải phóng tại chỗ gây co mạch. Các thuốc hủy phó giao cảm trung ương Một số triệu chứng của bệnh Parkinson như run, tăng tiết nước bọt là thể hiện sự cường phó giao cảm. Vì vậy từ lâu, các thuốc hủy phó giao cảm hấp thu qua đường tiêu hóa và thâm nhập được vào hệ thần kinh trung ương đã được dùng điều trị. Nhưng từ khi có levodopa, các thuốc này chỉ được dùng với các thể khởi đầu của Parkinson hoặc phối hợp với levodopa, đặc biệt khi triệu chứng run chiếm ưu thế. Nhược điểm của nhóm này là tác dụng kháng cholinergic ngoại biên: giãn đồng tử, khô miệng, táo bón. Vì vậy không được dùng cho người có tăng nhãn áp, phì đại tiền liệt tuyến. Các thuốc thường dùng: hyoscyamin, atropin sulfat, scopolamin, trihexyphenidyl, dietazin... BS. Trần Tất Đạt

Nguồn SK&ĐS: http://suckhoedoisong.vn/2010083103002618p0c14/thuoc-dieu-tri-benh-parkinson.htm