Sửa đổi, bổ sung Thông tư 30: Cần hướng tới độ mở, linh hoạt theo vùng miền

GD&TĐ - Sau 2 năm triển khai thực hiện đánh giá HS theo Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT, hầu hết các cán bộ, giáo viên qua trao đổi đều cho biết trong thời gian đầu mới áp dụng cũng đã có những khó khăn nhất định, tuy nhiên, nếu biết vận dụng linh hoạt theo thực tế GD và đặc thù địa phương, thì công tác đánh giá HS theo Thông tư 30 sẽ tạo động lực cho giáo viên đổi mới phương pháp giảng dạy, khuyến khích HS hăng say học tập, rèn luyện.

Sự kỳ vọng của đội ngũ cán bộ, giáo viên vào mục tiêu, kết quả thực hiện Thông tư 30 càng tăng lên khi Bộ GD&ĐT có chủ trương sửa đổi nội dung theo hướng phù hợp với điều kiện dạy học thực tế.

Niềm tin vào tính nhân văn của Thông tư 30

Có hơn 20 năm kinh nghiệm đứng lớp, làm công tác quản lý trường học ở huyện miền núi biên giới Tây Giang (Quảng Nam), thầy giáo Trường Ơn – Hiệu trưởng Trường PTDT bán trú tiểu học Ga Ry (xã Ga Ry, huyện Tây Giang), chia sẻ: Trong thời gian qua, một trong những nguyên nhân khiến HS miền núi bỏ học giữa chừng; trong đó có việc so sánh học lực giữa HS này với HS khác dẫn đến các em cảm thấy xấu hổ, thua kém bạn bè, rồi bỏ trường bỏ lớp.

Vì thế, khi triển khai thực hiện Thông tư 30 về đánh giá HS không điểm số, đã gần như xóa bỏ được những hạn chế của việc đánh giá theo điểm số. Mặt khác, khi HS được động viên, khuyến khích, hầu hết đều chuyên tâm hơn với giờ học, việc đến lớp chuyên cần hơn và không còn tình trạng HS đi học “giã gạo” hay bỏ học giữa chừng.

Còn theo thầy Bùi Quang Ngọc – Hiệu trưởng Trường PTDT bán trú tiểu học Trà Leng (xã Trà Leng, huyện miền núi Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam), khi bắt đầu triển khai thực hiện Thông tư 30, đa số giáo viên cảm thấy không bị áp lực nhiều, ngoại trừ một số giáo viên bộ môn tỏ ra khá vất vả khi phải theo dõi, đánh giá vì có số lượng HS đông hơn, sổ sách cũng nhiều hơn.

Tuy nhiên, với đặc điểm HS ngày một giảm nên tỷ lệ HS/lớp ngày càng ít đi; chính vì vậy, hoạt động dạy học thường ngày trên lớp đối với giáo viên có nhiều thuận lợi hơn, giáo viên có thời gian quan tâm, chỉ bảo, kèm cặp HS.

Nhất là khi được tổ chức ăn ở bán trú, HS được giáo viên phụ đạo vào buổi tối và kèm cặp, động viên trong suốt thời gian ở trường… nên hiệu quả mang lại từ công tác đánh giá thường xuyên trên lớp cho thấy những kết quả rất rõ nét.

Những khó khăn cần tháo gỡ

Thầy Nguyễn Đình An – Trưởng phòng GD&ĐT huyện Nam Trà My (Quảng Nam) cho biết: Điều quan trọng nhất khi thực hiện Thông tư 30 là làm thế nào để giúp đội ngũ cán bộ, giáo viên cũng như các bậc phụ huynh hiểu đúng và đầy đủ ý nghĩa của việc đổi mới đánh giá, cách nhận biết các năng lực, phẩm chất của HS…

Từ đó, hình thành và xây dựng lời nhận xét, hướng dẫn HS trong quá trình học tập, rèn luyện và cách ra đề kiểm tra cuối học kì, cuối năm học. Nhất là đối với các trường học trên địa bàn miền núi, khi thực hiện Thông tư 30 cần có những giải pháp cụ thể, hoặc có độ mở, cho phép sự linh hoạt trong quá trình đánh giá HS, phù hợp từng vùng miền, nhất là ở miền núi và vùng đồng bào DTTS; để việc ghi nhận xét vào vở của HS một cách khoa học cũng như tránh hiện tượng giáo viên bị áp lực, quá tải dẫn đến đối phó khi thực hiện đánh giá HS.

Theo thầy Nguyễn Anh Tuấn – Trưởng phòng GD&ĐT huyện Tây Giang (Quảng Nam), qua công tác dự giờ, thăm lớp ở các trường trên địa bàn, có thể thấy rằng công tác đánh giá HS không điểm số còn gặp không ít khó khăn, chủ yếu do đặc thù địa phương. Đa số HS là người DTTS nên việc tự đánh giá và đánh giá bạn trong từng tiết học vẫn còn hạn chế nhất định.

Đối với HS chậm tiếp thu, giáo viên đánh giá nhận xét nhẹ nhàng dẫn đến nhàm chán, không xác thực, nhiều HS còn chủ quan không vươn lên trong học tập. Những lời nhận xét của giáo viên trong vở HS, phụ huynh là người DTTS nên không đọc được hoặc đọc không hiểu. Vì vậy, sự kết hợp của phụ huynh và giáo viên trong việc đánh giá, GD HS chưa có hiệu quả.

Sự tham gia đánh giá của phụ huynh, cộng đồng chưa thực tế. Việc HS tự bình bầu khen thưởng chưa quen và còn nặng về cảm tính. Danh hiệu khen thưởng cho HS chưa rõ ràng. Chính vì vậy, cần có bộ đánh giá chuẩn (cụ thể) đối với HS là người DTTS, đảm bảo được sự kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong việc GD HS. Giảm nhẹ việc thực hiện hồ sơ sổ cách để giáo viên chuyên tâm giảng dạy trên lớp đạt hiệu quả; đồng thời có quy định cụ thể về danh hiệu khen thưởng HS...

Thầy Nguyễn Anh Tuấn cho biết thêm: Trong quá trình thực hiện Thông tư 30, các trường tiểu học trên địa bàn đã có những giải pháp hỗ trợ giúp đỡ, động viên giáo viên nâng cao năng lực, trách nhiệm và lương tâm trong đánh giá, nhận xét HS. Các tổ chuyên môn ở trường học cũng thường xuyên sinh hoạt định kỳ để quán triệt Thông tư, trao đổi những kỹ năng đánh giá HS cho đội ngũ giáo viên từng môn học.

Hầu hết cán bộ, giáo viên trực tiếp công tác tại trường, lớp đầu nhìn nhận đây là một chủ trương hết sức nhân văn, có tác động tích cực đến công tác đổi mới hoạt động dạy học theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất người học.

Đây được xem là những cơ sở đặt nền móng vững chắc cho công tác triển khai thực hiện đánh giá HS theo Thông tư 30 trong những năm học tiếp theo, với mong muốn sẽ có những sửa đổi theo hướng mở, linh hoạt hơn để giáo viên có thể chủ động, sáng tạo áp dụng theo đặc thù từng vùng miền; với mục tiêu cao nhất là khuyến khích, động viên và thúc đẩy được HS chăm ngoan, học giỏi.

Trao đổi với chúng tôi, nhiều cán bộ quản lý GD tại các huyện miền núi tỉnh Quảng Nam, một nhân tố quan trọng làm cho công tác đánh giá HS theo Thông tư 30 gặp nhiều thuận lợi là đội ngũ giáo viên được chuẩn hóa 100%, trong đó giáo viên có trình độ chuyên môn trên chuẩn chiếm phần lớn.

Họ là những giáo viên tiểu học được đào tạo chính quy, có năng lực chuyên môn cũng như tình thần trách nhiệm, năng động trong mọi công tác, nhất là việc thích ứng với cái mới rất nhanh. Đây có thể xem là một trong những nền tảng cơ bản khi thực hiện Thông tư 30 hiện nay tại nhà trường và là cơ sở niềm tin hướng đến một môi trường GD toàn diện cho HS.

Nguồn GD&TĐ: http://giaoducthoidai.vn/giao-duc/sua-doi-bo-sung-thong-tu-30-can-huong-toi-do-mo-linh-hoat-theo-vung-mien-2164822-b.html