Quản chặt bằng chứng thu thập trong quá trình giải quyết tố cáo

Là một trong những nội dung được quy định tại quy trình tiếp nhận, giải quyết khiếu nại (KN), tố cáo (TC) của Kiểm toán Nhà nước (KTNN).

Điều 24 quy định, việc yêu cầu cung cấp thông tin, tài liệu, bằng chứng liên quan đến nội dung TC phải căn cứ vào kế hoạch xác minh đã được phê duyệt. Khi tiếp nhận thông tin, tài liệu, bằng chứng do người TC, người bị TC, cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân liên quan cung cấp trực tiếp thì tổ xác minh phải lập Giấy biên nhận.

Các thông tin, tài liệu, bằng chứng được thu thập trực tiếp phải thể hiện rõ nguồn gốc. Khi thu thập bản sao, tổ xác minh phải đối chiếu với bản chính; trong trường hợp không có bản chính thì phải ghi rõ trong giấy biên nhận. Các thông tin, tài liệu, bằng chứng do cơ quan, tổ chức, đơn vị cung cấp phải có xác nhận của cơ quan, tổ chức, đơn vị cung cấp. Thông tin, tài liệu, bằng chứng do cá nhân cung cấp phải có xác nhận của người cung cấp. Trong trường hợp tài liệu bị mất trang, mất chữ, quá cũ nát, quá mờ không đọc được chính xác nội dung thì người tiếp nhận tài liệu phải ghi rõ tình trạng của tài liệu đó trong giấy biên nhận.

Tổ xác minh phải kiểm tra tính xác thực của thông tin, tài liệu, bằng chứng đã thu thập được; đánh giá, nhận định về giá trị chứng minh của những thông tin, tài liệu, bằng chứng đã được thu thập trên cơ sở tuân thủ các quy định của pháp luật, các nguyên tắc trong giải quyết TC. Thông tin, tài liệu, bằng chứng được sử dụng làm chứng cứ để kết luận nội dung TC phải rõ nguồn gốc, tính khách quan, tính liên quan, tính hợp pháp.

Các thông tin, tài liệu, bằng chứng thu thập trong quá trình giải quyết TC phải được quản lý chặt chẽ, sử dụng đúng quy định; chỉ cung cấp hoặc công bố khi người có thẩm quyền cho phép.

Căn cứ kế hoạch xác minh, tình tiết vụ việc hoặc chỉ đạo của người ra quyết định thành lập tổ xác minh, tổ xác minh tiến hành xác minh thực tế ở những địa điểm cần thiết để thu thập, kiểm tra, xác định tính chính xác, hợp pháp của các thông tin, tài liệu, bằng chứng liên quan đến nội dung TC. Việc xác minh thực tế phải lập thành biên bản ghi đầy đủ kết quả xác minh, ý kiến của những người tham gia xác minh và những người khác có liên quan.

Khi xét thấy cần thiết, người ra quyết định thành lập tổ xác minh hoặc người giải quyết TC tham khảo ý kiến tư vấn của cơ quan chuyên môn, cơ quan quản lý cấp trên hoặc cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân khác có liên quan để phục vụ cho việc giải quyết TC.

Kết thúc việc xác minh, tổ trưởng tổ xác minh phải báo cáo người ra quyết định thành lập tổ xác minh bằng văn bản về kết quả xác minh. Trong quá trình xác minh, nếu phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm thì tổ trưởng tổ xác minh báo cáo ngay với người ra quyết định thành lập tổ xác minh. Người ra quyết định thành lập tổ xác minh phải kịp thời xử lý theo thẩm quyền, báo cáo Tổng KTNN xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp xác minh để giải quyết lại TC, cơ quan, đơn vị được giao nhiệm vụ xác minh còn phải nêu rõ những nội dung vi phạm pháp luật, sai lầm hoặc không phù hợp của việc giải quyết TC trước đó (nếu có) và kiến nghị việc xử lý đối với cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết TC trước đó.

Trước khi ban hành kết luận nội dung TC, trong trường hợp cần thiết, người giải quyết TC tổ chức cuộc họp để thông báo trực tiếp hoặc gửi dự thảo kết luận nội dung TC để người bị TC biết và tiếp tục giải trình (nếu có). Nếu trong dự thảo kết luận nội dung TC có thông tin thuộc bí mật nhà nước, thông tin có hại cho người TC thì không thông báo thông tin đó.

Căn cứ báo cáo kết quả xác minh nội dung TC, các thông tin, tài liệu, chứng cứ có liên quan, đối chiếu với các quy định của pháp luật, người giải quyết TC ban hành kết luận nội dung TC.

Trong trường hợp giải quyết lại TC, người giải quyết TC phải kết luận về những nội dung vi phạm pháp luật, sai lầm hoặc không phù hợp của việc giải quyết TC trước đó (nếu có); xử lý theo thẩm quyền hoặc chỉ đạo, kiến nghị cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền xử lý đối với cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết TC trước đó.

Sau khi có kết luận về nội dung TC, người giải quyết TC phải căn cứ kết luận nội dung TC để xử lý. Đối với hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm các quy định về nhiệm vụ, công vụ thuộc thẩm quyền xử lý của mình thì người giải quyết TC ban hành quyết định thu hồi tiền, tài sản (nếu có); thực hiện các thủ tục để xử lý kỷ luật và áp dụng các biện pháp khác theo quy định của pháp luật để xử lý vi phạm, buộc khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm pháp luật gây ra.Đối với hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm các quy định về nhiệm vụ, công vụ thuộc thẩm quyền xử lý của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc quyền quản lý của mình thì người giải quyết TC chỉ đạo cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân đó xử lý vi phạm và buộc khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm pháp luật gây ra.

Đối với hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm thì người giải quyết TC trình Tổng KTNN chuyển hồ sơ về hành vi vi phạm đó cho cơ quan điều tra. Hồ sơ bàn giao cho cơ quan điều tra là hồ sơ được lập trong quá trình giải quyết TC và phải được sao lại để lưu trữ.

Đối với hành vi vi phạm pháp luật không thuộc trường hợp quy định tại các điểm a, b, c khoản này thì có văn bản kiến nghị cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền xử lý vi phạm, đồng thời gửi kèm hồ sơ về hành vi vi phạm đó.

Trong trường hợp người TC cố ý TC sai sự thật thì người giải quyết TC phải áp dụng biện pháp theo thẩm quyền để xử lý người TC hoặc chỉ đạo, kiến nghị cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật. Thông tin về người cố ý TC sai sự thật, tài liệu, bút tích liên quan đến nội dung cố ý TC sai sự thật được sử dụng để phục vụ cho việc xử lý người cố ý TC sai sự thật. Các văn bản xử lý TC phải ghi rõ thời gian hoàn thành các nội dung xử lý, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan trong việc tổ chức thực hiện và báo cáo kết quả thực hiện.

Việc công khai kết luận nội dung TC, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị TC và thông báo kết quả giải quyết TC cho người TC được thực hiện theo quy định của Luật TC và pháp luật giải quyết TC.

Thanh tra KTNN có trách nhiệm giám sát, kiểm tra, đôn đốc các đơn vị trực thuộc KTNN có thẩm quyền giải quyết KN,TC thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật và quy trình này; theo dõi, tổng hợp kết quả giải quyết KN,TC của KTNN.

Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc KTNN có thẩm quyền giải quyết KN,TC hoặc được giao tham mưu giải quyết KN,TC có trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật và quy trình này.

B.B.Đ

Nguồn Thanh Tra: http://thanhtra.com.vn/phap-luat/hoan-thien-the-che/quan-chat-bang-chung-thu-thap-trong-qua-trinh-giai-quyet-to-cao_t114c1160n110596