Người bắn Ngô Đình Diệm giờ ra sao?

(Tamnhin.net) – 11 tuổi lưu lạc nơi đất khách quê người; 13 tuổi bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng và nếm mùi nhà tù đế quốc; 21 tuổi trở thành chiến sỹ điệp báo mưu trí, can trường; 22 tuổi xung phong nhận nhiệm vụ ám sát Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn Ngô Đình Diệm trên Cao nguyên. Vụ ám sát không thành, bị địch bắt tại chỗ ngày 22/2/1957; Gần 10 năm sống trong hệ thống nhà tù Mỹ - Diệm, phải chịu đựng những đòn tra tấn vô cùng man rợ với các thủ đoạn nhục hình. Tháng 11/1963 gia đinh họ Ngô bị giết trong cuộc đảo chính; Ngày 13/3/1965 ông được trả tự do tại Sài Gòn.

Kỳ 1:Tuổi thơ lưu lạc Buổi sáng trong căn nhà nhỏ yên tĩnh, xung quanh cây trái xum xuê, ông chậm rãi kể cho tôi nghe về cuộc đời mình… Cuộc đời một người đã làm chấn động dư luận và báo chí phương tây bởi vụ ám sát Ngô Đình Diệm – Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn năm 1957… Ông là Mười Thương, nguyên cán bộ Tiểu ban điệp báo, Ban an ninh Trung ương cục Miền nam. Anh hùng lực lương vũ trang nhân dân. Ông mở đầu câu chuyện khá hóm hỉnh rằng không hiểu sao ông lại lắm tên đến thế, cả ngoại lẫn nội. Từ Phan Văn Điền đến KinTà; Đinh Văn Phú; Đinh Dũng; Hà Minh Trí; Mười Thương…Chắc Diêm vương dưới âm phủ cũng không biết tên nào là thật nên ông mới sống đến bây giờ...Theo cụ trưởng tộc thì tên cúng cơm của ông là Phan Văn Điền, sinh năm Ất hợi (1935) tại xã Nghi Thiết, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Cha là Phan Văn Đồng, mất trong cuộc binh biến ở Đô Lương năm 1940 lúc ông mới 5 tuổi, mẹ đi lấy chồng, từ đó ông ở với bà nội. Nạn đói năm 1945 tràn đến hai bà cháu phải dắt nhau ra ngoài cầu Bùng ven đường quốc lộ ăn xin, đêm về lại chui vào cái lô cốt dưới chân cầu để ngủ. Gần cầu có một đồn của quân Nhật đóng, thấy 2 bà cháu dắt nhau đi ăn xin, tên Đồn trưởng thương hại, hàng ngày gọi cậu bé vào đồn cho ăn và còn cho cả phần cơm mang về cho bà. Khi chơi ở trong đồn, Điền được đám lính dạy truyền khẩu cho những từ thường dùng hàng ngày bằng tiếng Nhật, vì vậy sau này cậu mới nói được mấy câu bập bõm. Ít lâu sau quân Nhật chuyển đi, hai bà cháu lại dắt nhau thất thểu về làng. Làng ở sát biển nên buổi chiều Điền thường cùng đám bạn ra nhặt vỏ ốc về chơi, một lần đang nô đùa trên bãi biển thì Điền thấy một người đàn ông đi dạo qua, đoán là người Nhật nên Điền buông một câu chào tiếng Nhật. Đang đi ông ta bỗng sững lại nhìn vì không ngờ ở cái làng chài ven biển này lại có cậu bé biết tiếng Nhật. Hôm sau ông vào làng tìm đến túp nhà tranh lụp sụp nơi bà cháu Điền ở. Biết được hoàn cảnh của cậu bé, từ đó ông hay rủ cậu đến chơi chỗ ông ở là khu biệt thự nghỉ mát của Pháp để lại, xung quanh có lính canh gác.Thỉnh thoảng ông lại cho ngồi cùng trên ô tô ra Vinh chơi rồi còn đặt cho cậu cái tên Nhật là KinTà ( dịch sang tiếng Việt là Kim Thái, tạm hiểu là một thứ quý giá ). Như thường lệ, một hôm ông lại rủ KinTà đi chơi, nhưng cậu không ngờ đó là lần đi định mệnh để mãi gần 50 năm sau cậu mới có dịp quay về. Kin Tà được đưa lên đoàn xe tải chở đầy lính Nhật chạy thẳng vào Sài Gòn. Mãi sau này khi đi hoạt động cách mạng, ông Mười Thương mới biết đó là đoàn xe của đội quân Quan đông của Nhật từ Mãn Châu vào Trung Quốc, qua Việt Nam rồi sang Thái Lan. Trên đường hành quân từ Bắc vào Nam đội quân Quan Đông đã bắt theo 7 đứa trẻ cũng trạc tuổi ông. Và cũng chỉ vì mấy câu tiếng Nhật mà đời ông đã sang bước ngoặt khác. Sau 3 ngày hành quân thì đoàn xe đến Huế, trong lúc nghỉ Điền đã chạy vào một quán ăn kể lại chuyện bị quân Nhật bắt và nhờ chủ quán viết thư báo về cho bà nội ở quê biết. Ông chủ quán thương tình đã nhận lời nhưng chắc do loạn lạc nên lá thư không về đến quê. Sau này nghe kể lại vì quá thương nhớ đứa cháu mà bà sinh ra ốm đau rồi mất vài năm sau đó. Đến Sài Gòn, Điền và đám bạn phải đi cắt cỏ, chăn ngựa. Thấy cậu bé có cái tên Kin Tà nhanh nhẹn tháo vát, lại nói được tiếng Nhật, một viên sỹ quan đã gọi Kin Tà lên cho làm chân sai vặt hàng ngày ra phố mua thuốc lá, hoa quả. Đây cũng là dịp mà Kin Tà được tiếp xúc, va chạm làm quen với lối sống thị thành. Có lần cậu còn đi theo các anh chị thanh niên tiền phong mang cờ vàng sao đỏ diễu hành qua các phố miệng hô vang khẩu hiệu “ Việt Nam độc lập muôn năm”. Thời điểm này vào đầu năm 1946, cục diện chính trường trên thế giới và đông dương đang có nhiều biến động. Ở Sài Gòn khoảng 3 tháng thì quân Nhật lại được lệnh chuyển xuống Vũng Tàu tiếp quản một doanh trại cũ. Lúc này bọn trẻ được thả rông, ăn rồi hàng ngày lang thang ra phố chơi. Một sáng viên chỉ huy gọi 8 đứa trẻ, đứa lớn nhất 14 tuổi, đứa nhỏ nhất 11 tuổi đến rồi bảo rằng những ngày tới chúng phải tự lo thân. Quân Nhật ở đây có lệnh phải lên đường về nước nhận nhiệm vụ mới, bọn trẻ không thể đi theo được. Hôm sau toàn bộ sỹ quan và binh lính Nhật đội ngũ chỉnh tề hành quân xuống tàu neo đậu ở cảng, bỏ lại doanh trại cùng một số lương thực, thực phẩm, vải vóc cho đám trẻ. Biết không còn nơi bấu víu, bọn trẻ lấy những quận vải trong kho mang ra phố bán rẻ lấy tiền chia nhau. Giữ lại một ít lương thực thực phẩm, còn lại gọi bà con xung quanh đến lấy. Cũng từ đây 8 đứa trẻ tan tác mỗi đứa một ngả, đứa đánh giày, bán báo, đứa làm thuê cho tiệm ăn, đứa phiêu dạt lên Sài Gòn. Không ai biết những ngày tiếp theo cuộc đời chúng sẽ trôi về đâu… Hà Hoàng Kỳ 2: Một phát súng và hơn 3.000 ngày khổ sai.

Nguồn Tầm Nhìn: http://www.tamnhin.net/chuyen-dong/7666/nguoi-ban-ngo-dinh-diem-gio-ra-sao.html