Một số điểm mới trong Quy định thi hành Điều lệ Đảng khóa XI

LTS - Ngày 1-11-2011, thay mặt Ban Chấp hành T.Ư, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký Quy định số 45-QĐ/T.Ư về thi hành Điều lệ Đảng. Để tìm hiểu sâu hơn, nhất là những điểm mới, nội dung cơ bản trong Quy định này, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Nguyễn Hoàng Việt, Ủy viên T.Ư Đảng, Phó Trưởng Ban Tổ chức T.Ư.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã thông qua việc bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng. Thực hiện Chương trình làm việc toàn khóa và Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XI, đồng thời để nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành Điều lệ Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Quy định số 45-QĐ/T.Ư ngày 1-11-2011 về thi hành Điều lệ Đảng (Quy định thi hành Điều lệ Đảng Đại hội X do Bộ Chính trị ban hành).

Quy định thi hành Điều lệ Đảng được xây dựng trên cơ sở Điều lệ Đảng do Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng thông qua, trong đó tập trung cụ thể hơn những nội dung mới của Điều lệ Đảng và những vấn đề mà Điều lệ Đảng giao Ban Chấp hành Trung ương quy định. Bố cục, kết cấu của Quy định theo thứ tự chương, điều trong Điều lệ Đảng để bảo đảm tính hệ thống và thuận tiện việc theo dõi, thực hiện. Nội dung Quy định có 61 điểm (tăng 6 điểm so với Quy định số 23-QĐ/T.Ư ngày 31-10-2006 của Bộ Chính trị khóa X, đó là điểm 2, điểm 4, điểm 5, điểm 6, điểm 31, điểm 36) được xây dựng trên nguyên tắc: một là, giữ nguyên những nội dung còn phù hợp trong Quy định thi hành Điều lệ Đảng của Bộ Chính trị khóa X; hai là, cụ thể hóa những nội dung mới trong Điều lệ Đảng do Đại hội XI của Đảng thông qua; ba là, bổ sung một số nội dung trong Hướng dẫn số 03-HD/BTCT.Ư ngày 29-12-2006 của Ban Tổ chức T.Ư về "Một số vấn đề cụ thể thi hành Điều lệ Đảng" đã được thực tiễn chứng minh là phù hợp và thấy cần thiết đưa vào Quy định để thực hiện. Quy định thi hành Điều lệ Đảng của Ban Chấp hành T.Ư có 23 điểm mới được bổ sung, sửa đổi, tập trung vào các nội dung như sau:

- Về trách nhiệm và quyền của đảng viên: Quy định của Ban Chấp hành Trung ương: "Đảng viên phải gương mẫu chấp hành pháp luật và các quy định, hướng dẫn của Trung ương về những điều đảng viên không được làm". Đồng thời, để gắn trách nhiệm với quyền của đảng viên khi thực hiện phê bình, chất vấn, kiến nghị đối với cá nhân, tổ chức đảng, Quy định mới nêu rõ: Đảng viên được phê bình, chất vấn, báo cáo, kiến nghị trực tiếp hoặc bằng văn bản trong phạm vi tổ chức của Đảng về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên mọi cấp, về những vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức đảng hoặc chức trách, nhiệm vụ, phẩm chất đạo đức của đảng viên đó; chịu trách nhiệm trước tổ chức đảng về ý kiến của mình.

- Về việc giới thiệu người vào Đảng: Để bảo đảm quyền lợi đối với người xin vào Đảng và phù hợp với thực tiễn, việc giới thiệu người vào Đảng được cụ thể trong quy định mới: "Đảng viên giới thiệu người vào Đảng là đảng viên chính thức, cùng công tác, lao động, học tập ít nhất 12 tháng với người được giới thiệu vào Đảng trong cùng một đơn vị thuộc phạm vi lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ cơ sở. Nếu đảng viên giới thiệu người vào Đảng chuyển đến đảng bộ cơ sở khác, bị kỷ luật hoặc vì lý do khác không thể tiếp tục thì chi bộ phân công đảng viên chính thức khác theo dõi, giúp đỡ người vào Đảng (không nhất thiết đảng viên đó phải cùng công tác, lao động, học tập với người vào Đảng ít nhất 12 tháng)".

- Về thẩm quyền ra quyết định kết nạp đảng viên, Quy định nêu rõ: Đảng ủy cơ sở được ủy quyền kết nạp đảng viên thì do tập thể đảng ủy cơ sở xem xét, quyết định. Đối với cấp ủy cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng và đảng ủy được giao quyền cấp trên cơ sở thì do ban thường vụ xem xét, quyết định. Đảng ủy Ngoài nước thì do tập thể Thường trực Đảng ủy Ngoài nước và trưởng các ban xây dựng Đảng xem xét, quyết định. Việc kết nạp đảng viên ở những nơi chưa có chi bộ: Cấp ủy cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng giao chi bộ có điều kiện thuận lợi nhất phân công đảng viên chính thức tuyên truyền, giúp đỡ người vào Đảng. Khi có đủ điều kiện, tiêu chuẩn vào Đảng thì chi bộ nơi có đảng viên giúp đỡ người vào Đảng đang sinh hoạt làm thủ tục đề nghị kết nạp.

- Về thời hạn xem xét, quyết định kết nạp đảng viên và tổ chức kết nạp đảng viên được quy định như sau: Trong thời hạn 60 ngày làm việc kể từ ngày chi bộ có nghị quyết đề nghị kết nạp, cấp ủy có thẩm quyền phải xem xét, quyết định đồng ý hoặc không đồng ý và thông báo kết quả cho chi bộ, nếu để quá thời hạn trên mà không có lý do chính đáng thì phải kiểm điểm trách nhiệm trước cấp ủy cấp trên. Trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định kết nạp đảng viên của cấp ủy có thẩm quyền, chi bộ phải tổ chức lễ kết nạp cho đảng viên. Nếu để quá thời hạn trên phải báo cáo và được cấp ủy cấp trên trực tiếp đồng ý.

- Về công nhận đảng viên chính thức, tính tuổi Đảng của đảng viên và việc phát thẻ đảng viên được quy định như sau: Chi bộ phải kịp thời xét công nhận chính thức cho đảng viên khi hết 12 tháng dự bị. Thời hạn từ khi chi bộ có văn bản đề nghị đến khi cấp ủy đảng có thẩm quyền quyết định công nhận chính thức không được quá 30 ngày làm việc. Khi đảng viên đã được công nhận chính thức thì tuổi Đảng của đảng viên tính từ ngày ghi trong quyết định kết nạp, trừ thời gian không tham gia sinh hoạt đảng. Những đồng chí không lưu giữ được quyết định kết nạp Đảng thì tính từ ngày vào Đảng ghi trong Thẻ đảng viên. Khi đảng viên hết thời kỳ dự bị, được công nhận là đảng viên chính thức thì chi bộ tổ chức phát thẻ Đảng cho đảng viên trong kỳ sinh hoạt chi bộ gần nhất, sau khi có quyết định của cấp có thẩm quyền (không nhất thiết phát vào các đợt 3-2; 19-5; 2-9; 7-11 trong năm).

- Về việc xóa tên đảng viên được quy định như sau: Chi bộ xem xét, đề nghị lên cấp ủy có thẩm quyền quyết định xóa tên trong danh sách đảng viên đối với các trường hợp sau: đảng viên bỏ sinh hoạt hoặc không đóng đảng phí ba tháng trong năm mà không có lý do chính đáng; đảng viên tự ý trả thẻ đảng viên hoặc tự hủy thẻ đảng viên; đảng viên giảm sút ý chí phấn đấu, không thực hiện nhiệm vụ đảng viên, đã được chi bộ giáo dục sau thời gian 12 tháng mà không tiến bộ; đảng viên 2 năm liền vi phạm tư cách đảng viên.

- Về số lượng thành viên của đại hội, hội nghị để tính kết quả bầu cử và biểu quyết được quy định như sau: Số thành viên của đại hội đảng viên, hội nghị đảng viên là tổng số đảng viên chính thức trong đảng bộ, chi bộ được triệu tập có đủ tư cách, trừ số đảng viên đã giới thiệu sinh hoạt tạm thời ở đảng bộ khác và đảng viên được miễn công tác và sinh hoạt đảng không có mặt ở đại hội (nếu đảng viên đó có mặt ở đại hội, hội nghị đảng viên, tham gia bầu cử, biểu quyết thì vẫn tính), số đảng viên bị đình chỉ sinh hoạt đảng, bị khởi tố, truy tố, tạm giam, số đảng viên chính thức vắng mặt suốt thời gian đại hội có lý do chính đáng được cấp ủy triệu tập đại hội đồng ý. Số thành viên của hội nghị ban chấp hành đảng bộ, ban thường vụ cấp ủy, ủy ban kiểm tra là tổng số cấp ủy viên đương nhiệm của ban chấp hành đảng bộ, ban thường vụ, ủy ban kiểm tra đương nhiệm (trừ số thành viên đã chuyển sinh hoạt tạm thời không có mặt tại hội nghị; số thành viên đang bị đình chỉ sinh hoạt, bị khởi tố, truy tố, tạm giam).

- Về điều kiện để lập đảng bộ cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng ở những nơi có đặc điểm riêng được quy định như sau: Cấp trên trực tiếp của đảng bộ được thành lập là tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc T.Ư; có những đơn vị thành viên là tổ chức có tư cách pháp nhân; có các tổ chức cơ sở đảng trực thuộc và đảng bộ có từ 500 đảng viên trở lên. Việc thành lập đảng bộ cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng ở những nơi có đặc điểm riêng do tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc T.Ư quyết định. Đối với những nơi đặc thù, có yêu cầu lập đảng bộ cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng khác với quy định này phải được sự đồng ý của Ban Bí thư.

- Việc chỉ định đại biểu tham dự đại hội đại biểu các cấp chỉ thực hiện đối với tổ chức đảng ở các đảng bộ, chi bộ đang hoạt động ở nước ngoài; đảng bộ, chi bộ có đa số đảng viên hoạt động phân tán, đang làm nhiệm vụ chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, hoặc vì thiên tai... mà không tổ chức đại hội được, nếu cấp ủy cấp trên trực tiếp đồng ý thì cấp ủy triệu tập đại hội được chỉ định một số đại biểu ở các chi bộ, đảng bộ đó phù hợp với tính chất, đặc điểm, số lượng đảng viên ở các đơn vị đó. Số lượng đại biểu được chỉ định nằm trong tổng số đại biểu được triệu tập.

- Về nhiệm vụ của cấp ủy khóa mới được quy định như sau: Cấp ủy khóa mới được điều hành công việc ngay sau khi được bầu. Điểm mới trong quy định lần này: Hội nghị lần thứ nhất của cấp ủy khóa mới do đồng chí bí thư hoặc phó bí thư khóa trước tái cử, hoặc đồng chí được cấp ủy cấp trên ủy nhiệm (nếu bí thư, phó bí thư khóa trước không tái cử) làm triệu tập viên, khai mạc, chủ trì cho đến khi bầu xong đoàn chủ tịch hoặc chủ tịch hội nghị. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành T.Ư khóa mới do đồng chí Tổng Bí thư khóa trước hoặc một đồng chí ủy viên Bộ Chính trị khóa trước tái cử do Đoàn Chủ tịch Đại hội phân công làm triệu tập viên khai mạc, chủ trì cho đến khi bầu xong đoàn chủ tịch hội nghị. Đồng chí bí thư cấp ủy, đồng chí chủ nhiệm ủy ban kiểm tra cấp ủy được ký các văn bản với chức danh bí thư, chủ nhiệm ủy ban kiểm tra. Trường hợp chưa bầu được bí thư thì một đồng chí phó bí thư cấp ủy khóa mới được cấp ủy ủy nhiệm ký các văn bản với chức danh phó bí thư.

- Để phù hợp với thực tiễn và tạo điều kiện cho đảng đoàn, ban cán sự đảng thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Quy định mới nêu rõ: Đảng đoàn, ban cán sự đảng được sử dụng bộ máy giúp việc chuyên trách của cơ quan, đơn vị để thực hiện công tác lãnh đạo, chỉ đạo của mình. Nếu xét thấy cần thiết thì tập thể đảng đoàn, ban cán sự đảng có thể quyết định thành lập văn phòng đảng đoàn, ban cán sự đảng và bố trí một số cán bộ chuyên trách giúp việc.

- Việc chỉ định cấp ủy đối với những đảng bộ, chi bộ thành lập mới, chia tách, sáp nhập, hợp nhất trong nhiệm kỳ thì cấp ủy cấp trên trực tiếp chỉ định cấp ủy chính thức, ban thường vụ, bí thư, phó bí thư; cấp ủy bầu ủy ban kiểm tra, chủ nhiệm ủy ban kiểm tra; chỉ đạo xây dựng hoặc bổ sung nhiệm vụ cho phù hợp; nhiệm kỳ đầu tiên của cấp ủy không nhất thiết là năm năm.

- Về việc lập các cơ quan chuyên trách tham mưu giúp việc, đơn vị sự nghiệp của các đảng bộ khối trực thuộc T.Ư gồm: Văn phòng, ban tổ chức, cơ quan ủy ban kiểm tra, ban tuyên giáo, ban dân vận, trung tâm bồi dưỡng chính trị. Đối với đảng bộ cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng trực thuộc đảng ủy khối Trung ương được lập các cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc bao gồm: văn phòng, ban tổ chức, ban tuyên giáo và cơ quan ủy ban kiểm tra.

- Về việc thành lập tổ chức đảng ở một số đơn vị cơ sở được quy định như sau: Ở xã, phường, thị trấn có từ ba đảng viên chính thức trở lên thì lập tổ chức cơ sở đảng; cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng là cấp ủy huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Ở cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sản xuất, đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân đội, công an và các đơn vị khác có từ ba đảng viên chính thức trở lên thì lập tổ chức đảng (tổ chức cơ sở đảng hoặc chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở); cấp ủy cấp trên trực tiếp quyết định việc tổ chức đảng đó trực thuộc cấp ủy cấp trên nào cho phù hợp; nếu chưa đủ ba đảng viên chính thức thì cấp ủy cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích hợp.

- Về việc tặng Huy hiệu Đảng. Trước đây Bộ Chính trị quy định khi đảng viên có 30 năm tuổi đảng trở lên thì 10 năm xét tặng huy hiệu Đảng một lần. Nay quy định thêm đảng viên có từ 50 năm tuổi đảng trở lên thì năm năm được xét tặng huy hiệu Đảng một lần để phù hợp với nguyện vọng, tuổi thọ của đảng viên. Nội dung mới được thể hiện: Đảng viên có 30, 40, 50, 55 năm, 60 năm, 65 năm, 70 năm, 75 năm, 80 năm, 85 năm và 90 năm tuổi Đảng được tặng huy hiệu Đảng.

- Về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong chương VII và chương VIII Điều lệ Đảng, Ban Chấp hành T.Ư có hướng dẫn riêng. Trong Quy định thi hành Điều lệ Đảng chỉ quy định những vấn đề có tính nguyên tắc như sau:

Về thẩm quyền thi hành kỷ luật đảng viên được quy định cụ thể đối với chi bộ, đảng ủy cơ sở, đảng ủy cơ sở được ủy quyền kết nạp và khai trừ đảng viên, cấp ủy cấp huyện và tương đương, cấp ủy cấp tỉnh và tương đương, Ban Chấp hành T.Ư, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Trường hợp tổ chức đảng cấp dưới không xem xét, xử lý hoặc xử lý không đúng mức thì tổ chức đảng có thẩm quyền cấp trên xem xét xử lý; đồng thời xem xét trách nhiệm của tổ chức đảng cấp dưới và người đứng đầu tổ chức đảng đó. Việc biểu quyết quyết định kỷ luật hoặc đề nghị kỷ luật phải thực hiện bằng phiếu kín. Trường hợp biểu quyết mà không có hình thức kỷ luật nào đủ đa số phiếu theo quy định thì phải báo cáo đầy đủ hồ sơ để tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét, quyết định. Những đảng viên vi phạm đang trong thời gian mang thai, nghỉ thai sản, đang mắc bệnh hiểm nghèo hoặc đang mất khả năng nhận thức, bị ốm điều trị nội trú tại bệnh viện được cơ quan y tế có thẩm quyền theo quy định của pháp luật xác nhận thì chưa xem xét, xử lý kỷ luật.

Về giải quyết khiếu nại kỷ luật trong Đảng được thực hiện: Tổ chức đảng vi phạm kỷ luật thì cơ quan lãnh đạo, thường trực cơ quan lãnh đạo hoặc người đứng đầu của tổ chức đảng đó chuẩn bị nội dung kiểm điểm, báo cáo trước hội nghị tổ chức mình để kiểm điểm, làm rõ đúng sai, nội dung, mức độ, tính chất, tác hại, nguyên nhân của vi phạm, xác định trách nhiệm của tổ chức, từng thành viên và biểu quyết tự nhận hình thức kỷ luật của tổ chức, của từng thành viên có liên quan và báo cáo lên tổ chức đảng cấp trên có thẩm quyền xem xét, quyết định. Đại diện của tổ chức đảng cấp trên có thẩm quyền tham dự hội nghị này. Nếu tổ chức đảng sau khi sáp nhập, chia tách hoặc kết thúc hoạt động mới phát hiện có vi phạm thì tổ chức đảng có thẩm quyền, cấp trên của tổ chức đảng đó xem xét, xử lý. Khi giải quyết khiếu nại kỷ luật trong đảng, đảng ủy cơ sở, ban thường vụ cấp ủy và ủy ban kiểm tra từ cấp huyện, quận và tương đương trở lên có thẩm quyền chuẩn y, thay đổi hoặc xóa bỏ hình thức kỷ luật do tổ chức đảng cấp dưới quyết định. Sau khi xem xét, kết luận, tổ chức đảng phải biểu quyết bằng phiếu kín quyết định chuẩn y hay thay đổi hình thức kỷ luật cụ thể. Trường hợp biểu quyết quyết định chuẩn y hay thay đổi hình thức kỷ luật cụ thể không đủ đa số phiếu theo quy định thì báo cáo tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét, quyết định. Việc giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng được tiến hành từ ủy ban kiểm tra hoặc cấp ủy cấp trên trực tiếp của tổ chức đảng đã quyết định thi hành kỷ luật. Sau khi được giải quyết, nếu đảng viên hoặc tổ chức đảng bị thi hành kỷ luật không đồng ý, có khiếu nại tiếp thì tổ chức đảng cấp trên tiếp tục giải quyết, cho đến Bộ Chính trị hoặc Ban Chấp hành Trung ương. Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị, Ban Bí thư quy định về một số vấn đề khác nhau theo quyền và chỉ đạo các cơ quan chuyên trách tham mưu giúp việc nghiên cứu để hướng dẫn những vấn đề thuộc về phương pháp, quy trình, thủ tục về nghiệp vụ để cụ thể hóa những Quy định của Điều lệ Đảng.

Nguồn Nhân Dân: http://www.nhandan.org.vn/cmlink/nhandandientu/thoisu/chinh-tri/tin-chung/m-t-s-i-m-m-i-trong-quy-nh-thi-hanh-i-u-l-ng-khoa-xi-1.321505