Lư Hòa Nghĩa - tài hoa và bi kịch

(ĐTTCO) - Giữa lúc sân khấu cải lương gặp nhiều khó khăn, lượng khán giả ngày càng ít đi, đời sống nghệ sĩ bấp bênh, tôi chợt nhớ đến Lư Hòa Nghĩa, người sáng lập đoàn Thanh Minh nổi tiếng một thời ở Sài Gòn và miền Nam. Lư Hòa Nghĩa chính là người mở ra kỷ nguyên mới cho vọng cổ, nâng tầm cải lương, tạo dựng danh tiếng cho nhiều nghệ sĩ, trong đó có con mình là Thanh Nga và Bảo Quốc. Đồng thời ông còn là nhà quản lý, kinh doanh nghệ thuật tài ba.

Về rừng U Minh nghe đờn ca tài tử, qua câu chuyện với một soạn giả, tôi mới nhớ năm nay kỷ niệm 105 ngày sinh nghệ sĩ Lư Hòa Nghĩa, thường được gọi Năm Nghĩa. Ông sinh năm 1911 ở Bạc Liêu, có năng khiếu về cổ nhạc và giọng ca thiên phú, theo học đờn ca tài tử với sư Nguyệt Chiếu, một danh sư cổ nhạc bấy giờ ở Bạc Liêu. Từ đây, ông cùng câu vọng cổ phiêu bạt lên Sài Gòn dựng nghiệp và trở thành một nhân vật có nhiều ảnh hưởng đến đời sống nghệ thuật. Điều làm tôi luôn băn khoăn: dù sự nghiệp nghệ thuật của Lư Hòa Nghĩa có thể sánh ngang với các nghệ sĩ Cao Văn Lầu, Nguyễn Thành Châu, Phùng Há, Út Trà Ôn, Viễn Châu… nhưng không hiểu sao ông chẳng được thực sự vinh danh.

Người mở đầu kỷ nguyên vọng cổ

Chẳng những sinh ra công tử tay chơi khét tiếng mà xứ Bạc Liêu còn xuất hiện “dân chơi” nghệ sĩ tài hoa Sáu Lầu, Năm Nghĩa cùng nhiều bậc tài tử khác giàu tâm hồn nghệ sĩ. Bản Dạ cổ hoài lang của cụ Sáu Lầu được lan truyền khắp miền sông rạch Nam Kỳ lục tỉnh, nhất là trong những dịp lễ lạc hội hè, đặt cột mốc đầu tiên cho sự ra đời của nghệ thuật vọng cổ, giống như bài thơ Tình già của cụ Phan Khôi mở đầu phong trào Thơ mới. Ban đầu, bản Dạ cổ hoài lang nhịp 4 được nhiều người ca, nhưng nổi tiếng ca hay nhất là Năm Nghĩa. Ông có giọng hát cao, thanh tao, làn hơi đặc biệt. Tuy nhiên, vì nhịp 4 quá ngắn nên bản Dạ cổ hoài lang làm cho làn hơi thiên phú của Năm Nghĩa bị chặn lại, không thể hiện hết tài năng và sự truyền cảm của mình. Sau một thời gian trăn trở, mày mò sáng tác, vào một đêm nọ nghệ sĩ Năm Nghĩa đã hoàn thành một bản 20 câu dựa theo Dạ cổ hoài lang, đó là bản Vì tiền lỗi đạo mà sau này hay được gọi là Văng vẳng tiếng chuông chùa dựa theo câu mở đầu của bài hát: “Văng vẳng tiếng chuông chùa xa đưa/ Giọng công phu của đoàn sư vãi/ Ba tiếng chuông ngân/ Giọng chuông thức tỉnh dường như khêu gợi/ Nỗi bi tình trên cõi tạm trần ai…”.

Tôn trọng người đi trước, nghệ sĩ Năm Nghĩa đã mang bản nhạc Vì tiền lỗi đạo của mình đến diện kiến và hát cho nghệ sĩ Sáu Lầu nghe. Năm Nghĩa đề nghị bậc thầy thêm chữ “đờn” vào mỗi câu trong bản Dạ cổ hoài lang, tức là kéo dài mỗi câu ra gấp đôi bằng những tiếng “hơ hơ hơ” cho dễ hát. Thấy đàn em Năm Nghĩa nói có lý, Sáu Lầu mời thêm 2 thầy đờn giỏi khác của Bạc Liêu là nhạc sĩ Ba Chột và nhạc sĩ Mười Khói đến bàn bạc. Cả 3 ông đã nhất trí đưa bản Dạ cổ hoài lang tăng lên nhịp 8, tức gấp đôi nhịp 4 trước đây, cho phù hợp với giọng ca và bản nhạc của Năm Nghĩa mới sáng tác. Thời điểm đáng nhớ ấy là năm 1934. Gần 1 năm sau, nhờ tài năng giọng ca thiên phú của Năm Nghĩa, bản Dạ cổ hoài lang nhịp 8, tức Vì tiền lỗi đạo đã phổ biến lên tận Sài Gòn và khắp Nam Kỳ lục tỉnh. Hãng đĩa Asia ở Sài Gòn đã tiến hành thu đĩa làm cho giọng hát Năm Nghĩa và bản nhạc càng có sức lan tỏa mạnh mẽ. Kể từ ấy, cái tên “Dạ cổ” cũng được người Sài Gòn và Nam bộ nói trại thành “Vọng cổ” cho tới ngày nay.

Một cảnh trong vở Ánh nắng chiều xưa của các nghệ sĩ Kim Cúc, Út Bạch Lan, Năm Nghĩa và Thanh Nga.

Như vậy, cảm hứng từ cái khuôn Dạ cổ hoài Lang của nghệ sĩ Cao Văn Lầu, Lư Hòa Nghĩa bằng tài năng của mình đã tiên phong mở ra một hướng đi mới đúng đắn cho bản vọng cổ. Chính bài hát Vì tiền lỗi đạo hay Văng vẳng tiếng chuông chùa của Năm Nghĩa cũng đã mở đầu cho kỷ nguyên vọng cổ, để dần dần chiếm lĩnh vị trí hết sức quan trọng trong nền cổ nhạc Nam bộ, làm nền tảng quan trọng cho sự hình thành, phát triển ca kịch cải lương.

Cần vinh danh nghệ sĩ Lư Hòa Nghĩa

Khi trò chuyện với tôi, NSND Viễn Châu cũng khẳng định nếu như Sáu Lầu là người khai mở bản Dạ cổ hoài lang nhịp 4 thì Năm Nghĩa là người đầu tiên có công phổ biến rộng rãi bản vọng cổ với Vì tiền lỗi đạo nhịp 8, còn NSND Út Trà Ôn là người đưa bản vọng cổ lên đỉnh cao với bản Tôn Tẩn giả điên do vị Yết Ma Hòa thượng sáng tác riêng cho ông hát, với nhịp 16, tức tiếp tục tăng gấp đôi so với nhịp 8 bản của Năm Nghĩa.

Không chỉ có giọng ca thiên phú, khả năng sáng tác nhạc và soạn tuồng, Lư Hòa Nghĩa còn là người giỏi tổ chức biểu diễn và phát hiện tài năng nghệ thuật. Vào năm 1948, ông đã kết hôn với bà Nguyễn Thị Thơ, tức Bầu Thơ nổi danh sau này. Vốn người ở Tây Ninh, bà Bầu Thơ trước đó đã có một đời chồng, giàu có và rất say mê vọng cổ, cải lương. Thanh Nga là con riêng của bà. Khi Năm Nghĩa về sống với bà, Thanh Nga mới 6 tuổi được ông yêu thương dạy dỗ như con ruột. Mối tình của người đẹp Tây Ninh với Năm Nghĩa rất tâm đầu ý hợp, trong vòng 10 năm đã sinh hạ 5 người con Bảo Quốc, Chí Bình, Ánh Đào, Ánh Mai, Chí Tiên. Đồng thời họ cùng nhau thành lập gánh hát Thanh Minh năm 1949 ở Sài Gòn, quy tụ nhiều nghệ sĩ tài năng Nam bộ bấy giờ. Nhìn thấy 2 con nhỏ Thanh Nga và Bảo Quốc có năng khiếu ca hát, diễn xuất, Năm Nghĩa chú tâm dạy dỗ, hướng dẫn và còn nhờ nghệ sĩ Út Trong kềm cặp dạy thêm. Bệ phóng quan trọng đó đã giúp Thanh Nga và Bảo Quốc từng bước trưởng thành.

Vào năm 1952, khi Thanh Nga mới 10 tuổi, được Năm Nghĩa đưa lên sân khấu ca bản vọng cổ Văng vẳng tiếng chuông chùa trước khi mở màn hát chính thức mỗi đêm của đoàn Thanh Minh. Sang năm 12 tuổi, Thanh Nga đã được Năm Nghĩa cho vào vai diễn đầu tiên là cô bé Nghi Xuân trong vở tuồng Phạm Công - Cúc Hoa. Đến năm 16 tuổi, Thanh Nga đã trở thành một ngôi sao sáng sân khấu cải lương qua vai diễn xuất sắc Sơn nữ Phà Ca trong vở Người vợ không bao giờ cưới của thi sĩ, soạn giả Kiên Giang - Hà Huy Hà và Qui Sắc, giúp cô đoạt Huy chương vàng giải thưởng Thanh Tâm danh giá cho diễn viên triển vọng xuất sắc nhất trong năm 1958. Từ ấy, tên tuổi Thanh Nga thực sự bắt đầu đi vào lòng người hâm mộ. Đoàn hát Thanh Minh cũng đổi tên thành Thanh Minh - Thanh Nga.

Nếu như Thanh Nga có giọng ca và phong cách diễn xuất đặc biệt, thì Năm Nghĩa phát hiện ở người con trai Bảo Quốc năng khiếu gây cười. Vì vậy, Bảo Quốc được cha hướng dẫn, sắp vào những vai hề chọc cười, trau dồi bản lĩnh nghệ thuật qua từng vai diễn, để trở thành danh hài hàng đầu Việt Nam sau này. Thời hưng thịnh của bà Bầu Thơ, có lúc đoàn Thanh Minh tách thành 2 đoàn, bên cạnh Thanh Minh - Thanh Nga là Thanh Minh - Bảo Quốc để thay nhau đi biểu diễn khắp nơi. Trong 10 năm thành lập và phát triển đoàn Thanh Minh, nghệ sĩ Lư Hòa Nghĩa vừa quản lý, đạo diễn, đóng tuồng và còn vừa soạn nhiều vở tuồng để đời như: Tiếng trống hòa bình (1954), Chén cơm đô thành (1953), Thầy cai Tổng Bồi (1954), Anh hùng trên chiến mã (1956)... Năm 1959, nghệ sĩ Năm Nghĩa đột ngột qua đời ở tuổi 49, giữa lúc bao nhiêu dự định nghệ thuật chưa thực hiện. Tuy mệnh bạc, ông cũng kịp để lại cho người vợ giỏi giang một gia sản nghệ thuật lớn. Và điều đáng quý bà và các con Thanh Nga và Bảo Quốc đã biết cách tiếp tục phát huy những giá trị người chồng, người cha để lại.

Cùng với nghệ sĩ Cao Văn Lầu và nhiều bậc tài tử sinh trưởng ở xứ Bạc Liêu, nghệ sĩ Lư Hòa Nghĩa xứng đáng được nhớ đến và tôn vinh vì công lao của ông đối với nghệ thuật đờn ca tài tử, vọng cổ, cải lương Nam bộ. Từ những đóng góp lớn lao của nghệ sĩ Lư Hòa Nghĩa đối với nghệ thuật Nam bộ, tôi nghĩ tên ông cũng xứng đáng lưu danh đặt cho một con đường ở Bạc Liêu quê hương.

PHAN HUỲNH

Nguồn SGĐT: http://www.saigondautu.com.vn/pages/20161102/lu-hoa-nghia-tai-hoa-va-bi-kich.aspx