Kiểm tra chuyên ngành: 'Gốc' có đổi thì 'ngọn' mới chuyển
Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến quản lý chuyên ngành đối với hàng hóa xuất nhập khẩu phải thay đổi căn bản phương thức quản lý, kiểm tra chuyên ngành, áp dụng quản lý rủi ro, đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp (DN), chuyển sang hậu kiểm...
Ảnh: VGP/Lê Anh
Đây là ý của các đại biểu khi tham dự hội thảo tham vấn “Định hướng sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về quản lý chuyên ngành” do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) phối hợp với Dự án Quản trị Nhà nước nhằm tăng tưởng toàn diện (GIG) của Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tổ chức ngày 3/10 tại TPHCM.
Kiểm tra chuyên ngành đang là trở ngại lớn
TS. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cho rằng, công tác quản lý chuyên ngành đối với hàng hóa nhập khẩu (NK) đang là trở ngại lớn, gây nhiều khó khăn, tốn kém thời gian và chi phí của DN. Đó cũng là lực cản cơ bản đối với việc cải thiện chỉ số “Giao dịch thương mại qua biên giới” theo yêu cầu của Nghị quyết 19 về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh và đi ngược với những cam kết theo các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như TPP, FTA Việt Nam-EU.
Theo kết quả nghiên cứu và khảo sát thực tế về quản lý, kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất nhập khâủtại một số đơn vị thuộc hải quan như Hà Nội, TPHCM, Lạng Sơn, Cần Thơ, Đà Nẵng, Bình Định và một số DN tại các địa bàn của Dự án GIG cho thấy, về cơ bản, thời gian kiểm tra chuyên ngành chưa được cải thiện. Chi phí quản lý, kiểm tra chuyên ngành không giảm, thậm chí các chi phí không chính thức có biểu hiện tăng hơn trước.
Đơn giản các quy định về hợp quy
Theo các đại biểu, hiện nay, việc kiểm tra hàng hóa trong NK theo Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Luật An toàn thực phẩm, Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật… đã bộc lộ nhiều bất cập.
Với các quy định trên, để hoàn thành việc NK một lô hàng, DN phải trải qua khoảng 10 bước/thủ tục (gồm 3 bước/thủ tục hợp quy, 7 bước/thủ tục NK).
Cụ thể, một số bước, thủ tục phải làm đi, làm lại đối với một sản phẩm do nhiều người NK, nhưng cá nhân, DN khác nhau phải làm thủ tục hợp quy độc lập; sản phẩm đã được công bố hợp quy, nhưng mỗi lần NK đều phải thực hiện thủ tục kiểm tra Nhà nước...
Nhiều DN cho rằng, nhiều nguyên vật liệu thông dụng được nhập về phục vụ cho sản xuất bị kiểm tra chuyên ngành quá nhiều, trong khi DN đã phải chịu trách nhiệm chất lượng với khách hàng, nếu DN không đáp ứng được chất lượng, tự DN bị đào thải.
Để đơn giản hóa các thủ tục kiểm tra hàng hóa, các DN kiến nghị, Điều 34 Khoản 2 (về điều kiện bảo đảm chất lượng hàng hóa NK) cần sửa lại là: Hàng hóa thuộc nhóm 2 NK lần đầu tiên phải được chứng nhận hợp quy, công bố hợp quy theo quy chuẩn kỹ thuật tương ứng liên quan đến quá trình sản xuất, sản phẩm cuối cùng, bởi tổ chức chứng nhận được chỉ định hoặc được thừa nhận theo quy định tại Điều 26 của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Công bố hợp quy này được thông báo trên Cổng thông tin một cửa quốc gia do Tổng cục Hải quan quản lý, có giá trị áp dụng đối với các mặt hàng cùng dòng sản phẩm với lô hàng NK đã được công bố hợp quy.
Đối với Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, các đại biểu đề xuất, sửa đổi tại Điều 47 (chứng nhận hợp quy) theo hướng, đối với hàng hóa NK, chỉ thực hiện chứng nhận hợp quy đối với lô sản phẩm NK đầu tiên. Các sản phẩm cùng dòng sản phẩm với lô hàng NK đã được chứng nhận hợp quy không phải thực hiện chứng nhận hợp quy.
Còn tại Điều 48 về (công bố hợp quy) điều chỉnh theo hướng, đối với hàng hóa NK, thực hiện công bố hợp quy đối với lô sản phẩm NK đầu tiên.
Hướng tới áp dụng quản lý rủi ro
Ông Nguyễn Hoài Nam, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho rằng, các mặt hàng nông, thủy sản gắn bó trực tiếp với quá trình sản xuất của người nông dân, ngay từ khi sản xuất đã phải đáp ứng các tiêu chuẩn về nuôi trồng theo quy định của các bộ, ngành, đến khi xuất khẩu (XK) cũng phải tuân thủ các tiêu chuẩn kỹ thuật khắt khe từ quốc tế. Vì vậy, không lý gì phải kiểm tra quá chặt chẽ, mà chỉ cần kiểm tra theo hướng quản lý rủi ro hàng hóa. Đây là phương pháp mà nhiều nước trên thế giới đang áp dụng.
“Muốn giải quyết nút thắt từ quản lý chuyên ngành nhằm hỗ trợ DN thì cần sự vào cuộc quyết liệt từ các bộ, ngành. Đồng thời áp dụng quản lý hàng hóa theo hướng quản lý rủi ro giống như hải quan đang áp dụng việc phân luồng (xanh, vàng, đỏ) đối với hàng hóa”, ông Nam nói.
Theo đó, đối với Luật An toàn thực phẩm, các DN cho rằng cần áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro trong kiểm tra Nhà nước về an toàn thực phẩm đối với thực phẩm NK căn cứ lịch sử tuân thủ pháp luật an toàn thực phẩm của tổ chức, cá nhân NK; tính chất, chủng loại hàng hóa; sản phẩm đã công bố hợp quy hay chưa; mức độ nổi tiếng của sản phẩm, nhãn hiệu; thỏa thuận công nhận lẫn nhau mà Việt Nam đã ký kết để áp dụng.
Bà Nguyễn Thị Tuyết Mai, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam kiến nghị phải có hình thức xử phạt. Chẳng hạn bồi thường tiền cho DN nếu như cơ quan quản lý cố tình kéo dài việc kiểm tra chuyên ngành gây ảnh hưởng, thiệt hại cho DN.
Đồng thời, cơ quan chức năng cần bổ sung những mặt hàng phải kiểm tra theo mã hồ sơ, để khi kiểm tra, DN biết cần phải làm gì, thủ tục liên quan đến bộ, ngành nào.
Lê Anh