Huyện Mỹ Đức trả lời ông Nguyễn Xuân Chỉnh về cấp sổ đỏ

Liên quan đến kiến nghị của gia đình ông Nguyễn Xuân Chỉnh về việc UBND huyện Mỹ Đức, TP. Hà Nội giải quyết không thỏa đáng đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng 3 thửa đất của gia đình, Sở Tài nguyên và Môi trường TP. Hà Nội đã có văn bản đề nghị UBND huyện Mỹ Đức kiểm tra, trả lời.

Giao Sở TNMT Hà Nội kiểm tra, xác minh kiến...

Về vấn đề này, căn cứ Văn bản số 05/BC-TTr ngày 22/2/2016 của Thanh tra huyện Mỹ Đức báo cáo kết quả xác minh, làm rõ đơn của ông Nguyễn Xuân Chỉnh, UBND huyện Mỹ Đức, TP. Hà Nội đã ban hành 3 Quyết định về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Xuân Chỉnh đối với 3 thửa đất.

Theo đó, đối với diện tích 295m 2 và 664m 2 đất tại thôn Phú Hiền, xã Hợp Thanh, theo hồ sơ quản lý đất đai và việc sử dụng đất thì toàn bộ ao Dộc Dưới là đất nông nghiệp, thuộc quỹ đất công ích do UBND xã Hợp Thanh quản lý. Tuy nhiên, UBND xã Hợp Thanh (giai đoạn 1989-1993) đã buông lỏng công tác quản lý, dẫn đến việc để lãnh đạo thôn Phú Hiền ký hợp đồng giao thầu với ông Hoàng Văn Lạng, sau đó ông Lạng đã chuyển nhượng hợp đồng cho ông Nguyễn Xuân Chỉnh là không đúng quy định của pháp luật.

Việc năm 2000, ông Phạm Ngọc Thạch ký văn bản tạm giao 960m 2 đất mặt nước ao Dộc Dưới cho ông Chỉnh sử dụng để nuôi trồng thủy sản, không ghi thời hạn là trái quy định của Luật Đất đai năm 1993 (được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 1998 và 2001) về thẩm quyền giao đất và trái với Quyết định số 78 QĐ/UB ngày 28/4/1998 của UBND huyện Mỹ Đức.

Năm 2010, UBND xã Hợp Thanh tổ chức đo đạc để lập bản đồ đất đai trên địa bàn xã nhưng không rà soát, đối chiếu giữa hồ sơ đất đai đã lập trước đó với hiện trạng sử dụng đất; đã tự ý thực hiện tách thửa ghi diện tích 223,5m 2 đất ao Dộc Dưới là đất thổ cư đứng tên ông Nguyễn Xuân Chỉnh vào hồ sơ địa chính năm 2010 khi chưa được cấp có thẩm quyền xem xét cho chuyển mục đích sử dụng đất là không đúng quy định của Nhà nước.

Diện tích 664m 2 đất không có thửa riêng biệt mà nằm trong thửa số 59 có tổng diện tích 1.615m 2 , tờ bản đồ số 31, xã Hợp Thanh lập năm 2010 thuộc quỹ đất công ích do UBND xã Hợp Thanh quản lý.

Như vậy, việc ông Nguyễn Xuân Chỉnh cho rằng ông căn cứ vào Khoản 1, Điều 38; Khoản 1, Điều 42; Khoản 1, 2, Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 và biên bản tạm giao đất ngày 11/4/2000 của UBND xã Hợp Thanh để yêu cầu cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở đối với diện tích 295m 2 thuộc thửa 546, tờ bản đồ số 28 xã Hợp Thanh lập năm 2010 và diện tích 664m 2 nằm trong thửa 59, tờ bản đồ số 31 xã Hợp Thanh lập năm 2010, khi chưa được cấp có thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng đất là không có cơ sở pháp lý.

Đối với diện tích 867,2m 2 , theo hồ sơ quản lý đất đai của xã Hợp Thanh qua các thời kỳ, diện tích này là đất nghĩa địa, chủ sử dụng đất là UBND xã Hợp Thanh. Thực địa trên khu đất có 27 ngôi mộ và trồng một số cây xoan.

Việc ông Nguyễn Xuân Chỉnh trích dẫn Khoản 3, Điều 5, Luật Đất đai năm 2013 để yêu cầu cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cộng đồng dòng họ đối với diện tích 867,2m 2 là không có căn cứ pháp lý, không đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận theo Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 và Điều 100 Luật Đất đai năm 2013.

Chinhphu.vn

Share on Tumblr

Nguồn Chính Phủ: http://baochinhphu.vn/tra-loi-cong-dan/huyen-my-duc-tra-loi-ong-nguyen-xuan-chinh-ve-cap-so-do/255338.vgp