Chủ quyền biển đảo Việt Nam qua châu bản, mộc bản triều Nguyễn

Một trong những vấn đề mà triều Nguyễn quan tâm, chú trọng nhất trong suốt thời gian trị vì là chủ quyền vùng biển đảo quốc gia. Các chứng cứ để lại, đặc biệt là 2 khối di sản tư liệu: Châu bản và mộc bản triều Nguyễn đều chứng minh nhà Nguyễn có chính sách quản lý vùng biển đảo khá toàn diện và chặt chẽ.

Bản dập mộc bản ghi việc vua Minh Mệnh giúp thuyền buôn phương Tây mắc cạn ở Hoàng Sa năm 1836.

Châu bản, mộc bản triều Nguyễn - di sản tư liệu thế giới

Mộc bản triều Nguyễn là những văn bản chữ Hán - Nôm được khắc ngược trên gỗ để in ra các sách tại Việt Nam vào thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, được hình thành chủ yếu trong quá trình hoạt động của Quốc sử quán triều Nguyễn – là cơ quan biên soạn quốc sử, các sách chuyên khảo về giáo dục, địa chí... được thành lập năm 1820 dưới thời vua Minh Mạng tại Huế.

Nội dung mộc bản triều Nguyễn rất phong phú và đa dạng, phản ánh mọi mặt về xã hội Việt Nam dưới triều Nguyễn. Tất cả nội dung các bản thảo được khắc trên mộc bản đều được hoàng đế trực tiếp ngự lãm, phê duyệt bằng bút tích trước khi chính thức khắc lên gỗ.

Các bản khắc mộc bản triều Nguyễn ngoài giá trị về mặt sử liệu, còn có giá trị về nghệ thuật, kỹ thuật chế tác. Vì vậy, những tài liệu này được coi là quốc bảo. Ngày 31.7.2009, mộc bản triều Nguyễn được UNESCO công nhận là di sản tư liệu thế giới. Hiện 34.555 tấm mộc bản đang được bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia 4 (Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước).

Châu bản triều Nguyễn là các bản tấu sớ, sắc, dụ, chiếu, chỉ, tờ trình, sổ sách kê khai, văn bản ngoại giao thuộc kho lưu trữ của triều đình Nguyễn được vua ngự lãm hoặc ngự phê. Những lời phê của vua đều bằng chữ son nên gọi là châu phê hoặc châu bút. Văn bản đã có châu phê thì gọi là châu bản. Châu phê tượng trưng cho quyền lực tối cao trong nước nên những văn bản đã có châu phê thì không được sửa chữa nữa. Theo thường lệ, ngự phê có thể chia ra thành châu phê, châu điểm, châu khuyên, châu mạt, châu cải.

Châu bản triều Nguyễn
ngày 27.6 năm Minh Mệnh thứ 11 (1830).

Châu bản triều Nguyễn ngày 13.7 năm Minh Mệnh thứ 16 (1835).

Châu bản triều Nguyễn ngày 21.6 năm Minh Mệnh thứ 19 (1838).

Triều Nguyễn từ Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị đến Tự Đức đều chú trọng phát triển chế độ quân chủ tập quyền cho nên vấn đề văn thư lưu trữ cũng được quan tâm xây dựng quy củ. Nội dung châu bản phản ánh hầu hết các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quân sự, ngoại giao của xã hội Việt Nam từ thời Gia Long đến Bảo Đại.

Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, khắc nghiệt của thời gian, sự tàn phá của chiến tranh, đến nay tài liệu châu bản bị hỏng nát và mất mát khá nhiều. Số châu bản hiện còn có lẽ không bằng 1/5 ngày trước. Vì vậy châu bản triều Nguyễn là di sản quý giá độc nhất vô nhị và rất có ý nghĩa đối với dân tộc ta.

Các nhà khoa học ngày nay coi tài liệu châu bản là nguồn sử liệu chân xác, đồ sộ, phong phú để nghiên cứu xã hội, đặc biệt là nghiên cứu thiết chế chính trị, bộ máy nhà nước, chính sách đối nội, đối ngoại, các mặt đời sống xã hội dưới triều Nguyễn. Vì vậy, không chỉ các nhà khoa học, nhà nghiên cứu Việt Nam mà cả nhà nghiên cứu nước ngoài muốn tìm hiểu văn hóa, văn minh Việt Nam nói chung đặc biệt về các vương triều Nguyễn đều chú trọng đến khối tài
liệu này.

Ngày 14.5.2014, châu bản triều Nguyễn được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu Chương trình Ký ức thế giới Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.

Chủ quyền biển đảo Việt Nam nhìn từ châu bản, mộc bản triều Nguyễn.

Tài liệu lưu trữ hầu hết đều được sinh ra đồng thời với các sự kiện lịch sử, phản ánh khách quan, chân thực sự kiện. Vì vậy, đây là nguồn sử liệu đặc biệt có giá trị với độ tin cậy cao. Việc khai thác không chỉ giúp giới sử học tái hiện lại lịch sử mà còn có giá trị trong xác minh tính chân thực, chính xác của các sự kiện.

Như một nhân chứng cho các sự kiện trong quá khứ, các tài liệu lưu trữ chính là bằng chứng bảo vệ quyền lợi dân tộc và lợi ích cá nhân. Tài liệu lưu trữ vì thế có thể làm căn cứ xác đáng, xác thực nhất chứng minh chủ quyền quốc gia lãnh thổ ở hầu khắp các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Châu bản triều Nguyễn (hiện bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ I) và mộc bản triều Nguyễn (hiện bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV) có lưu một số tư liệu quan trọng liên quan đến chủ quyền biển đảo của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa.

Nhà Nguyễn cho người đi khảo sát, đo đạc, vẽ bản đồ Hoàng Sa

Hằng năm nhà Nguyễn đều cử người ra Hoàng Sa khảo sát, đo đạc và vẽ bản đồ. Trong số các văn bản châu bản triều Nguyễn về Hoàng Sa có rất nhiều văn bản đề cập đến hoạt động này.

Châu bản triều Nguyễn ngày 21.6 năm Minh Mệnh thứ 19 (1838) có nội dung: Bộ Công tâu trình đoàn đi khảo sát Hoàng Sa lần này có Đỗ Mậu Thưởng, thị vệ Lê Trọng Bá là người của bộ. Đoàn khảo sát được 25 đảo thuộc vùng thứ 3, vẽ được 4 bản đồ mang về (có 3 bức vẽ riêng từng vùng, một bức vẽ chung). Bộ Công tâu xin cho họ chỉnh sửa hoàn thiện để dâng trình.

Không chỉ coi là nhiệm vụ của những đội Hoàng Sa mà ngay cả đối với thuyền buôn các nước, nếu vẽ được bản đồ, triều đình cũng sẽ trọng thưởng.

Mộc bản triều Nguyễn, sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ”, quyển 55, năm Gia Long thứ 16 (1817) chép: “Tháng 6, thuyền Mã Cao đậu Đà Nẵng, đem địa đồ đảo Hoàng Sa dâng lên, thưởng cho những người trên thuyền Mã Cao 20 lạng bạc”.

Nhà Nguyễn thưởng, phạt những người đi thực hiện công vụ ở Hoàng Sa.

Dưới thời Nguyễn, hằng năm triều đình vẫn thường cử những phái đoàn ra công cán ở quần đảo Hoàng Sa. Nhiều đoàn thực hiện tốt công việc đã được triều đình trọng thưởng, nhưng cũng có những đoàn không tuân theo ý chỉ của triều đình đã bị phạt.

Châu bản triều Nguyễn ngày 13.7 năm Minh Mệnh thứ 16 (1835) có đoạn:

Nội các vâng mệnh truyền dụ:

Những người đi thực hiện công vụ ở Hoàng Sa được nhà vua ban thưởng.

Cai đội Phạm Văn Nguyên được phái đi Hoàng Sa, khi trở về dềnh dàng quá hạn, đã có chỉ giao cho Bộ trị tội. Nhưng qua tra xét chưa thấy có biểu hiện làm việc riêng tư. Vả lại, lần này được phái đi ra biển thực hiện công vụ chu đáo, rất đáng được dự thưởng... Còn về các viên có trách nhiệm vẽ bản đồ là Giám thành Trần Văn Vân, Nguyễn Văn Tiện, Nguyễn Văn Hoằng vẽ bản đồ chưa rõ ràng cũng bị phạt 80 trượng nhưng đều chuẩn cho tha. Viên dẫn đường Vũ Văn Hùng, Phạm Văn Sênh thì được ban thưởng tiền phi long loại nhỏ 3 mai. Các viên lính trong tượng, cục đi đợt này được thưởng tiền 1 quan, cho về đơn vị cũ, cục cũ. Các dân phu do tỉnh phái đi, trừ 2 viên đã được thưởng tiền, số còn lại đều được thưởng tiền mỗi người 1 quan để tỏ rõ sự ưu ái.

Châu bản triều Nguyễn ngày 13.7 năm Minh Mệnh thứ 18 (1837) có đoạn:

Trước đây đã phái thủy sư, giám thành cùng binh dân thuyền 2 tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi đến khảo sát Hoàng Sa. Nay đã trở về. Trừ viên thủy sư suất đội Phạm Văn Biện do kinh phái đi về quá hạn, viên dẫn đường do tỉnh phái đi là Vũ Văn Hùng, Phạm Văn Sênh, lái thuyền Lưu Đức Trực tất cả gồm 4 người đã có chỉ trách phạt, đánh đòn ra, còn binh dân cùng đoàn lênh đênh trên biển khơi cũng rất vất vả, nên xét ban ân binh đinh mỗi viên thưởng cho 1 tháng lương tiền, dân phu mỗi viên thưởng tiền 2 quan, trong đó các viên phu thuyền do tỉnh sai phái đi cho về quê làm ăn, riêng viên giám thành phạm lỗi là Trương Viết Soái trước là đốc biện trông coi việc luyện thuốc súng đã có sơ suất mắc lỗi bị xử phạt trảm giam hậu (chém đầu nhưng giam đợi đến mùa thu mới xét xử), năm ngoái được sai phái đi Hoàng Sa và đi hiệu lực xây dựng thành Gia Định để chuộc tội. Nay lại được sai phái đi khảo sát Hoàng Sa. Tuy đã đến khảo sát 11 nơi bãi cát và các đảo, việc đo vẽ bản đồ chưa thật chu đáo nhưng nhiều lần bị đầy đi làm việc khổ sai và cũng biết hối cải, nên gia ân tha cho viên Trương Viết Soái, cho về làm lính ở vệ giám thành...

Nhà Nguyễn cứu thuyền buôn người nước ngoài gặp nạn tại Hoàng Sa và Trường Sa

Mộc bản triều Nguyễn đề cập việc một số thuyền buôn bị nạn tại Hoàng Sa và triều đình đã làm nhiều cách giúp thuyền buôn các nước.

Mộc bản triều Nguyễn sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ”, quyển 104, năm Minh Mạng thứ 14 (1833) chép: Vua bảo bộ Công rằng: “Trong hải phận Quảng Ngãi, có một dải Hoàng Sa, xa trông trời nước một màu, không phân biệt được nông hay sâu. Gần đây, thuyền buôn thường bị nạn. Nay nên dự bị thuyền mành, đến sang năm sẽ phái người tới đó dựng miếu, lập bia và trồng cây cối. Ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, người dễ nhận biết, ngõ hầu tránh khỏi được nạn mắc cạn. Đó cũng là việc lợi muôn đời”.

Mộc bản triều Nguyễn sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ”, quyển 176, năm Minh Mạng thứ 17 (1836) cũng ghi: “Mùa đông, tháng 12, thuyền buôn Anh Cát Lợi (tức nước Anh ngày nay) đi qua Hoàng Sa, mắc cạn, bị vỡ và đắm; hơn 90 người đi thuyền sam bản đến bờ biển tỉnh Bình Định. Vua được tin, dụ tỉnh thần lựa nơi cho họ trú ngụ, hậu cấp cho tiền và gạo. Lại phái thị vệ thông ngôn đến dịch lời thăm hỏi, tuyên chỉ ban cấp. Bọn họ đều quỳ dài, khấu đầu không thôi. Sự cảm kích biểu lộ ra lời nói và nét mặt. Phái viên về tâu, vua nói: Họ, tính vốn kiệt hiệt, kiêu ngạo, nay được đội ơn chẩn tuất, bỗng cảm hóa. Thật rất đáng khen. Sai thưởng cho thuyền trưởng và đầu mục, mỗi người 1 áo đoạn vũ hàng màu, 1 quần vải tây và 1 chăn vải; các người tùy tùng mỗi người 1 bộ áo quần bằng vải màu. Sắc sai phái viên sang Tây là Nguyễn Tri Phương và Vũ Văn Giải đưa họ sang bến tàu Hạ Châu, cho về nước”.

Châu bản triều Nguyễn ngày 27.6 năm Minh Mệnh thứ 11 (1830) có nội dung: Ngày 27.6 năm Minh Mệnh thứ 11 (1830), quan thủ ngự cửa biển Đà Nẵng là Nguyễn Văn Ngữ tâu trình việc chủ thuyền buôn người Pháp Đô-Ô-Chi-Ly cùng phái viên người Việt Lê Quang Quỳnh đi buôn bán ở Lữ Tống (Philippines) gặp nạn tại Hoàng Sa. Thủ ngự Nguyễn Văn Ngữ được báo đã sai thuyền tuần tiễu cứu họ.

Châu bản triều Nguyễn ngày 22.12 năm Tự Đức thứ 22 (1868) cho biết:

Bộ Hộ tâu: Theo tấn thủ Đà Nẵng Nguyễn Văn Tư ngày 22.12 năm 1868 có một chiếc thuyền sam bản của ngoại quốc trôi dạt vào hải phận cửa tấn, tra xét ra đó là khoảng 500 người tỉnh Phúc Kiến nước Thanh đến Hạ Châu làm thuê kiếm sống. Do trời tối nên đoàn đi nhầm đến Vạn Lý Trường Sa và thuyền bị mắc cạn nên đã cho thuyền trôi dạt vào bờ để cấp cứu. Viên quan này đã trích tiền gạo đến để cấp phát.

Từ châu bản và mộc bản triều Nguyễn, chúng ta thấy chính sách quản lý vùng biển đảo của nhà Nguyễn khá toàn diện và chặt chẽ. Đây thực sự là những căn cứ vô cùng quan trọng khẳng định vương triều Nguyễn đã có chủ quyền rõ ràng với hai quần đảo này.

Nguồn Lao Động: http://laodong.com.vn/chinh-tri/chu-quyen-bien-dao-viet-nam-qua-chau-ban-moc-ban-trieu-nguyen-392232.bld