Chủ nghĩa Mác - Lê-nin không lỗi thời! (Tiếp theo và hết) *

Đó là cơ sở để thấy rằng, sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Liên Xô và một số nước không có nghĩa quan điểm của học thuyết Mác - Lê-nin về CNXH là sai lầm và lỗi thời, mà ngược lại, sẽ là ảo tưởng nếu cho rằng chủ nghĩa tư bản (CNTB) đang thắng thế.

* Chủ nghĩa Mác - Lê-nin không lỗi thời! (Kỳ 1)

Thực tế chỉ ra rằng, chính CNTB đang đứng trước những thách thức sinh tử. Mâu thuẫn lợi ích - căn bệnh bản chất của chủ nghĩa tư bản, đang làm nảy sinh sự chia rẽ khó tránh khỏi trong các liên minh ngỡ là rất bền vững của họ. Hiện tượng Brexit của nước Anh là dấu hiệu đầu tiên và tất yếu có nguồn gốc từ các mâu thuẫn trong lòng CNTB, khi châu Âu không còn một đối trọng là khối các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN). Khi không phải đối mặt với nguy cơ từ bên ngoài, các mâu thuẫn không thể tránh khỏi về lợi ích sẽ lại hiện nguyên hình, phá vỡ mối liên kết yếu ớt của các thế lực tư bản chủ nghĩa. Rồi nữa, những cuộc khủng bố hiện diện ngay trung tâm châu Âu, đe dọa không chỉ an ninh mà tạo nên sự bất ổn sống còn trong chế độ tư bản. Vụ khủng bố ở Nice (Ni-xơ) dịp Quốc khánh CH Pháp ngày 14-7, vụ khủng bố bằng phương thức tương tự ở Berlin (Béc-lin) (Đức) hôm 18-12-2016 vừa qua không chỉ báo hiệu nguy cơ lớn về an ninh ở châu Âu, mà còn cho thấy hệ quả của chính sách sai lầm, vụ lợi mà CNTB thể hiện qua hành xử với các nước nghèo, các quốc gia Bắc Phi và Trung Đông.

3. Không thể phủ nhận thực tế là các nước tư bản chủ nghĩa phát triển đã đạt nhiều thành tựu phát triển về kinh tế, khoa học và công nghệ, kéo theo các cải thiện nhất định về điều kiện sống của người dân. Nhưng đó là cách nhìn phiến diện, không thấy đằng sau, phía trước sự phát triển ấy là gì. Trước hết phải thấy rằng, CNTB đã có nhiều thế kỷ phát triển, và bánh xe vận hành của nó đã lăn đi trong máu và nước mắt của nhân loại cần lao trên các lục địa. “Những nước tư bản hiện đại là kết quả của một lịch sử nô dịch, diệt chủng, bạo lực và bóc lột một cách ghê tởm” (Tại sao Mác đúng?, NXB Chính trị - Hành chính, H.2012, tr.40) đó là lời của T. Eagleton (I-le-tơn) - học giả người Anh. Lật lại các trang lịch sử của nó là sẽ thấy những gì mà chế độ tư bản đã đối xử với đồng loại của mình. Cuốn sách Sự tàn sát khủng khiếp cuối thời Victoria viết rằng, vì chế độ thực dân xâm lược mà cuối thế kỷ 19, hàng chục triệu người Ấn Độ, châu Phi, Trung Quốc, Bra-xin, Triều Tiên, Nga và nhiều nước khác đã chết do đói, hạn hán, dịch bệnh. Và ngay tại các nước tư bản giàu có hiện nay, ai dám chắc mọi người dân đều có cuộc sống tốt đẹp?

Là người Việt Nam, sao có thể quên nỗi thống khổ của nhân dân trong đêm trường nô lệ dưới ách chủ nghĩa thực dân? Thực dân bóc lột cha ông chúng ta đến tận xương tủy. Bao nhiêu người Việt Nam đã chết trong xưởng máy, hầm lò, trên các cung đường, bến tàu, cánh đồng, đồn điền… Các cuộc khởi nghĩa từ Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, đến phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh,... đã bị dìm trong bể máu. Hơn hai triệu người chết đói năm 1945. “Địa ngục trần gian” ở Côn Đảo, Phú Quốc,... các vụ tàn sát dã man ở Thái Bình (Bình Định), Bình Hòa (Quảng Ngãi), Mỹ Lai (Quảng Ngãi),... các vụ ném bom ở Khâm Thiên, Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội),… vẫn còn nguyên trong ký ức dân tộc và các trang lịch sử đau thương ấy đủ giúp chúng ta và con cháu chúng ta hiểu vì sao cần phải xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Vậy mà vẫn có người bước ra khỏi biên giới là dành lời khen hay, khen đẹp cho các nước tư bản, cho các thành phố hào hoa. Chẳng lẽ họ không biết, hoặc họ cố tình không biết, các thành phố đó đã trải qua mấy trăm năm xây dựng, trong đó có sức lao động và của cải bóc lột từ các nước thuộc địa?

Việc xây dựng chế độ XHCN là công việc khó khăn, mang tính khoa học, có tính quy luật, đòi hỏi thời gian, nguồn lực, sự lãnh đạo chính trị đúng đắn cùng các điều kiện không thể thiếu khác. Theo V.I. Lê-nin, sau khi giành được chính quyền, giai cấp công nhân, nhân dân lao động xây dựng xã hội mới “có một nhiệm vụ căn bản khác được để lên hàng đầu, đó là: thiết lập một chế độ xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản, nghĩa là nâng cao năng suất lao động và do đó (và nhằm mục đích đó) phải tổ chức lao động theo một trình độ cao hơn” (V.I. Lê-nin, Toàn tập, Tập 36, NXB Tiến bộ, M.1978, tr.228-229). Cũng theo V.I. Lê-nin, nâng cao năng suất lao động là nhiệm vụ nặng nề, cần nhiều thời gian. Người so sánh đại thể rằng, chỉ cần một vài ngày có thể giành được chính quyền, vài tuần có thể dẹp tan sự phản kháng quân sự của giai cấp bóc lột, nhưng “Vô luận thế nào… cũng phải mất nhiều năm mới giải quyết được vững chắc nhiệm vụ nâng cao năng suất lao động” (V.I. Lê-nin, Toàn tập, Tập 36, NXB Tiến bộ, M.1978, tr.229).

Ở Việt Nam, chúng ta xây dựng đất nước theo con đường XHCN sau một cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài hơn 30 năm; sau đó là chiến tranh biên giới phía tây nam, chiến tranh biên giới phía bắc. Chúng ta xây dựng đất nước hầu như từ con số “0”, hậu quả chiến tranh là vô cùng nặng nề với hàng triệu thương binh, bệnh binh, người già và trẻ em không nơi nương tựa; đồng ruộng đầy bom, đạn, mìn. Vì thế, những gì có được hôm nay là rất đáng trân trọng và tự hào, mặc dù chưa được như mong đợi. Đương nhiên, không thể so sánh với các nước đã có mấy trăm năm phát triển mà không cần quan tâm đến nỗi thống khổ, sự hy sinh của người lao động ở thuộc địa và chính quốc. Hơn nữa, xây dựng một xã hội mới chưa từng có tiền lệ không phải là dễ dàng, không thể trong ngày một, ngày hai, bất chấp quy luật, đốt cháy giai đoạn. Như vậy, chỉ nhìn bề ngoài để so sánh rồi cho rằng CNTB ưu việt là không khách quan, không có cái nhìn lịch sử, cụ thể. Chỉ có bằng sự phân tích sâu sắc, toàn diện, bằng cách nhìn công bằng, lịch sử mới thấy được nguồn gốc, bản chất sự giàu có của các nước tư bản phát triển, mới thấy hết những thành công và các đóng góp to lớn của CNXH cho sự phát triển của nhân loại và tiến bộ xã hội.

4. Chúng ta không hề giấu giếm sai lầm, hạn chế trong quá trình xây dựng CNXH. Từ các bài học rút ra tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, chúng ta liên tục nhìn thẳng vào sự thật để nhận thức, đánh giá, rút ra bài học nhằm điều chỉnh chiến lược và sách lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là cơ sở để Báo cáo Chính trị Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Tăng trưởng kinh tế thấp hơn 5 năm trước, không đạt mục tiêu đề ra; năng suất, chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp… Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi… Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ; kỷ cương, kỷ luật chưa nghiêm…” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị Quốc gia, H.2016, tr.60-61). Đảng cũng thẳng thắn thừa nhận tình trạng nêu trên có các nguyên nhân khách quan, song “trực tiếp và quyết định nhất là nguyên nhân chủ quan”. Đó là hạn chế trong đánh giá, dự báo tình hình, trong nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, trong công tác lãnh đạo, quản lý của các cấp ủy, chính quyền…

Sai lầm, khuyết điểm, hạn chế trong quá trình xây dựng đất nước theo một mô hình chưa có tiền lệ là khó tránh khỏi. Xây dựng CNXH là công việc vô cùng khó khăn, phức tạp, có tính khoa học, đòi hỏi thời gian, nguồn lực to lớn và nhiều điều kiện khác. Chúng ta xây dựng CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh khốc liệt kéo dài. Khó khăn lớn nhất của chúng ta có lẽ trước hết không chỉ từ sự thiếu thốn về của cải, vật chất mà chủ yếu là ở lối nghĩ, tác phong mang nặng tính chất của nền văn hóa nông nghiệp. Không có kinh nghiệm tiền lệ, không được hỗ trợ như của các nước XHCN như trước đây, lại phải đối phó với sự o ép (như thời kỳ cấm vận chẳng hạn), rồi sự chống phá của các thế lực xấu, thù địch... nhưng chúng ta đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới. Từ GDP bình quân đầu người 80 USD đã tăng đến mức hơn 2.100 USD, đời sống nhân dân được cải thiện một bước cơ bản. Những thành tựu đó là không thể phủ nhận và đã được nhiều tổ chức, cá nhân trên thế giới, trong đó có nhiều học giả phương Tây thừa nhận.

Để đạt những thành tựu to lớn, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có các bước đi dũng cảm về nhận thức, đổi mới mạnh mẽ về chính sách kinh tế - xã hội. Từ nền kinh tế bao cấp hoàn toàn dựa trên sở hữu công cộng, chúng ta đã chuyển sang xây dựng kinh tế hàng hóa nhiều thành phần sở hữu, rồi chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN. Từ một nhà nước xây dựng theo mô hình chuyên chính vô sản, chúng ta chuyển sang xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.

Từ chỗ bị bao vây cấm vận, quan hệ với các nước XHCN là chủ yếu, chúng ta đã mở cửa hội nhập quốc tế, thiết lập quan hệ ngoại giao với 185 quốc gia và vùng lãnh thổ trên tổng số 193 thành viên Liên hợp quốc, trong đó có hai đối tác toàn diện đặc biệt, 15 đối tác chiến lược, 11 đối tác toàn diện, hai đối tác chiến lược theo từng lĩnh vực. Thực tế đó cho thấy, không thể có lý gì để cho rằng Đảng và Nhà nước Việt Nam bảo thủ, cố chấp, định kiến mà không đổi mới nhận thức, đổi mới chính sách về CNXH và xây dựng CNXH, cũng như không thể coi học thuyết Mác - Lê-nin đã có lỗi trong những khó khăn, hạn chế, sai lầm của quá trình xây dựng, phát triển đất nước.

Tóm lại, những người phủ nhận Chủ nghĩa Mác - Lê-nin thể hiện sự lầm lạc của họ ngay từ cơ sở lý luận - thực tiễn mà họ dựa vào. Hoặc là họ hiểu lầm về tính chất của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, hoặc là dù rất biết song họ vẫn cố tình xuyên tạc vì mục đích chính trị là thay đổi nền tảng tư tưởng, đường lối, mục tiêu xây dựng CNXH ở Việt Nam bằng một lý thuyết khác, một mô hình xã hội khác không vì lợi ích của nhân dân, không vì lợi ích của dân tộc. Nghiên cứu chỉ ra bản chất các luận điểm sai lầm, luận điệu xuyên tạc Chủ nghĩa Mác - Lê-nin không chỉ để bảo vệ tính khoa học, nhân văn của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, mà còn là cảnh báo để chúng ta nâng cao nhận thức của mình, tìm hiểu rõ hơn, quán triệt sâu sắc, thường xuyên hơn quan điểm thực tiễn, quan điểm lịch sử - cụ thể, tránh các căn bệnh bảo thủ, định kiến khi vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong xây dựng đường lối và hoạch định chính sách phát triển đất nước.

-----------------------------

(*) Xem Báo Nhân Dân từ số ra ngày 13-1-2017.

Nguồn Nhân Dân: http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item/31860702-chu-nghia-mac-le-nin-khong-loi-thoi.html