Chia tài sản là nhà đất khi ly hôn

Sau khi kết hôn, bố mẹ chồng bà Ngô Đức Liêm (ngoducliem06@...) tặng vợ chồng bà một mảnh đất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên chồng bà. Bà và chồng có 2 con chung, 1 con đã có gia đình và ở riêng, 1 con hiện đang chung sống cùng vợ chồng bà. Vậy, nếu vợ chồng bà ly hôn thì tài sản nhà đất được chia như thế nào?

Luật sư Lê Văn Đài, Văn phòng Luật sư Khánh Hưng - Đoàn Luật sư Hà Nội giải đáp trường hợp của bà Liêm như sau:

Xác định tài sản chung

Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình (HNGĐ) quy định, tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.

Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.

Theo khoản 1, 2, và 3 Điều 5 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 của Chính phủ, các tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng khi đăng ký quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ và chồng theo quy định tại khoản 2 Điều 27 của Luật HNGĐ bao gồm: Nhà ở, quyền sử dụng đất và những tài sản khác mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu.

Việc đăng ký các tài sản, quyền tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng phải ghi tên của cả vợ và chồng được thực hiện kể từ ngày Nghị định 70/2001/NĐ-CP có hiệu lực (18/10/2001).

Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng đã đăng ký quyền sở hữu trước ngày Nghị định trên có hiệu lực (18/10/2001) mà chỉ ghi tên của một bên vợ hoặc chồng, thì vợ chồng có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp lại giấy tờ đăng ký quyền sở hữu tài sản đó để ghi tên của cả vợ và chồng; nếu vợ chồng không yêu cầu cấp lại giấy tờ đăng ký quyền sở hữu tài sản, thì tài sản đó vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng; nếu có tranh chấp, bên nào cho đó là tài sản thuộc sở hữu riêng của mình, thì có nghĩa vụ chứng minh.

Đồng thời, Điểm B, Mục 3 Nghị quyết số 02/2000/NĐ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng khoản 2 Điều 27 Luật HNGĐ như sau: Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên, trong trường hợp tài sản do vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng, nếu không có tranh chấp thì đó là tài sản chung của vợ chồng; nếu có tranh chấp là tài sản riêng thì người có tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải chứng minh được tài sản này do được thừa kế riêng, được tặng riêng trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản này có được từ nguồn tài sản riêng. Trong trường hợp không chứng minh được tài sản đang có tranh chấp này là tài sản riêng thì tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng.

Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn

Điều 95 Luật HNGĐ quy định, việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó.

Việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau:

- Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập.

- Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

- Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập.

- Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị, bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.

Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trường hợp bà Ngô Đức Liêm hỏi, nếu sự việc đúng như bà trình bày là sau khi kết hôn, bố mẹ chồng của bà tặng cho chung vợ chồng bà 1 mảnh đất, nhưng chỉ đăng ký đứng tên chồng bà trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nếu việc đăng ký đó thực hiện trước ngày 18/10/2001, mà vợ chồng không yêu cầu cấp lại để đứng tên cả vợ chồng, thì thửa đất đó vẫn thuộc quyền sử dụng chung của vợ chồng.

Khi ly hôn, nếu có tranh chấp là tài sản riêng thì người chồng có tên trong giấy chứng nhận phải chứng minh được tài sản này do được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản này có được từ nguồn tài sản riêng. Trường hợp người chồng không chứng minh được tài sản đang có tranh chấp này là tài sản riêng, thì tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng. Việc chia tài sản chung của vợ chồng, trong đó có quyền sử dụng đất ở, sở hữu nhà ở khi ly hôn thực hiện theo nguyên tắc chia đôi nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này.

Trường hợp người chồng có chứng cứ hợp pháp chứng minh được quyền sử dụng đất ở, quyền sở hữu nhà ở mà ông đứng tên trong giấy chứng nhận là tài sản riêng, thì khi ly hôn quyền sử dụng đất, sở hữu nhà đó thuộc về người chồng. Theo Điều 99 Luật HNGĐ trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của người chồng đã được đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn, nhà ở đó vẫn thuộc sở hữu riêng của người chồng, nhưng phải thanh toán cho người vợ một phần giá trị nhà, căn cứ vào công sức bảo dưỡng, nâng cấp, cải tạo, sửa chữa nhà.

Khi ly hôn, nếu hai bên không thỏa thuận được việc chia tài sản, yêu cầu Tòa án giải quyết thì mỗi bên cần giao nộp cho Tòa án chứng cứ chứng minh về tài sản chung, tài sản riêng. Tòa án sẽ đánh giá chứng cứ để phân chia theo quy định của pháp luật.

Luật sư Lê Văn Đài

VPLS Khánh Hưng - Đoàn Luật sư Hà Nội

* Thông tin chuyên mục có giá trị tham khảo với người đọc, không dùng làm tài liệu trong tố tụng pháp luật.

Tin, bài liên quan

Phân định tài sản chung, tài sản riêng khi ly hôn

Nguồn Chính Phủ: http://baodientu.chinhphu.vn/home/chia-tai-san-la-nha-dat-khi-ly-hon/20123/133257.vgp