Cau ăn trầu vừa làm cây cảnh vừa làm thuốc hiệu quả

Cây cau cho trái dùng để ăn với lá trầu không nên gọi là cau ăn trầu để phân biệt với các loài cau khác,ngoài tác dụng đó cau còn có nhiều công dụng chữa nhiều bệnh hiệu quả.

Trong hạt ( phần thịt quả) trái cau có chứa tanin, trái non có 70% tanin, trái chín còn 15-20 % tanin.Ngoài ra có chứa chất mỡ 14% gồm myristin, olein, laurin và chất đường như sacaroza, mannan,galactan và muối vô cơ.Hoạt chất chính của phần thịt quả là 4 ancaloit là arecolin, arecaidin, guvaxin, guvacolin chiếm từ 0,1-5 %

Chất arecolin trong thịt quả cau gây chảy nước bọt và làm tăng bài tiết dịch vị làm co nhỏ đồng tử giúp giảm áp nhản trong bệnh Glocom.Chất areclin còn làm tim đập chậm, tăng nhu động ruột và có thể kích thích thần kinh.

Dung dich từ hạt cau có tác dụng độc đối với thần kinh của sán, 20 phút sau khi thuốc này tới ruột làm con sán bị tê liệt.Nên hạt cau được dùng tẩy giun sán cho chó với liều lượng 4 gam.Nếu dùng tẩy sán cho người thì phối hợp hạt cau với hạt bí ngô.Hạt cau khô dùng hỗ trợ tiêu hóa chữa viêm ruột.

Một số công dụng chữa bệnh từ cây cau

Rễ cau

Thường dùng loại rễ màu trắng mọc lộ ra trên mặt đất gọi là rễ cau nổi. Dùng độc vị rễ cau nổi (20-30g) thái nhỏ, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm hai lần trong ngày, chữa liệt dương. Để chữa đái nhắt, đái són, lấy rễ cau (10g) phối hợp với rễ trầu không (10g, có thể dùng thân hoặc lá) thái nhỏ, sắc uống ngày một thang. Dùng vài ngày. Phụ nữ có thai không được dùng rễ cau.

Lá cau

Phối hợp với vỏ núc nác, mỗi thứ 20-30g, thái nhỏ, sắc uống; kết hợp lấy lá đinh lăng lót giường nằm, chữa kinh giật ở trẻ em.

Vỏ quả cau

Lấy lớp vỏ dày trắng bên trong (đã lột bỏ vỏ xanh bên ngoài) phơi khô, có tên thuốc trong y học cổ truyền là đại phúc bì. Dược liệu có vị cay, tính hơi ôn, có tác dụng hạ khí, tiêu thũng chữa phù toàn thân, bụng đầy trướng, đại tiện không thông, tiểu tiện khó khăn. Ngày 6-9g dưới dạng nước sắc.

Hạt cau

Có vị đắng, chát, tính ôn, có tác dụng diệt trùng, tiêu tích, hành khí, lợi tiểu. Tẩy giun sán:Hạt cau khô (6-8g) thái nhỏ, sắc với 2 bát rượu, lấy 1 bát, uống làm 2-3 lần trong ngày. Chữa kiết lỵ, viêm ruột: Hạt cau khô (0,5-4g) sắc uống. Chữa khó tiêu, bụng đầy trướng: Hạt cau (10g), sơn tra (10g), sắc uống làm hai lần trong ngày.

Dùng ngoài, bột hạt cau rắc làm thuốc cầm máu.Buồng cau đang ra hoa và hình thành quả non bị thui chột, không phát triển, tự khô héo, màu vàng xám, gọi là buồng cau điếc (tên dân gian) hay tua cau rũ (tên trong sách thuốc cổ). Buồng cau điếc đốt tồn tính (không để cháy thành than) tán nhỏ, mỗi lần 4-6g ăn với cháo hoa, chữa hen suyễn hoặc 8g uống với nước tiểu trẻ em vào lúc đói, chữa khí hư. Buồng cau điếc (40g) phối hợp với gương sen (1-2 cái) thái nhỏ, phơi khô, nấu nước đặc uống trong ngày, chữa băng huyết.

Mốc cây cau hay phấn cau, rêu cau là những mảng mỏng màu trắng xám bám ở gốc và thân cây cau. Khi dùng, cạo lấy mốc, sao qua, lấy 40g giã nhỏ với bồ hóng (20g), dịt vào vết thương đang chảy máu, máu sẽ cầm ngay.Để chữa băng huyết, nôn ra máu, lấy mốc cau (20g), tinh tre (20g), lá chuối hột (10g). Đốt tồn tính, tán nhỏ, sắc uống làm hai lần trong ngày.

T/H

Nguồn PNNews: http://phununews.vn/cau-an-trau-vua-lam-cay-canh-vua-lam-thuoc-hieu-qua-256046.html