Căn bệnh của đói nghèo và bất bình đẳng giới

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tỉ lệ tử vong ở phụ nữ do các nguyên nhân liên quan tới ung thư cổ tử cung (UTCTC) trên toàn cầu hiện cao hơn tổng tỉ lệ tử vong do các nguyên nhân liên quan tới HIV, lao và sốt rét cộng lại. Vì vậy, việc phát hiện và điều trị sớm UTCTC ở phụ nữ còn có những quan hệ tích cực tới việc thực hiện các mục tiêu về xóa đói, giảm nghèo, giáo dục và bình đẳng giới.

Tốn kém về kinh tế

Hiện nay, UTCTC được coi là một vấn đề cần quan tâm trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe công cộng – đây là một căn bệnh đã và đang tiếp tục đe dọa tới đời sống và tính trạng sức khỏe của phụ nữ nói riêng và toàn bộ dân số nói chung.

Phát biểu tại Hội thảo “Phổ biến kết quả hành động quốc gia về dự phòng và kiểm soát UTCTC, giai đoạn 2016 - 2025” diễn ra sáng 10/11, bà Astrid Bant – Trưởng đại diện Quỹ dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) tại Việt Nam cho biết, trên phạm vi toàn thế giới, UTCTC đứng thứ 3 trong các căn bệnh ung thư phổ biến ở phụ nữ. Trong năm 2012, số phụ nữ tử vong do UTCTC ước tính khoảng 275.000 trường hợp và hơn 85% các ca tử vong liên quan tới UTCTC xảy ra tại các quốc gia có thu nhập thấp hoặc các quốc gia có thu nhập trung bình. Tại các quốc gia này, phụ nữ thường không tiếp cận được với tần soát và điều trị UTCTC.

Cần nâng cao kiến thức về bình đẳng giới cũng như cách phòng bệnh cho phụ nữ nông thôn.

“Tử vong do các nguyên nhân liên quan tới UTCTC thường kèm theo các thiệt hại rất lớn về kinh tế và có thể gây ra những gánh nặng về tài chính cho gia đình. Trên phạm vi toàn cầu, ước tính chi phí hàng năm liên quan tới UTCTC sẽ tăng từ 2,7 tỉ đô la Mỹ năm 2010 lên tới 4,7 tỉ đô la Mỹ vào năm 2030” – bà Astrid Bant cho biết thêm.

Tại Việt Nam, UTCTC là một trong những nguyên nhân gây tử vong do ung thư thường gặp nhất. Đây là căn bệnh ung thư được xếp thứ 4 trong các loại bệnh ung thư thường gặp nhất ở phụ nữ và đứng thứ 2 trong các bệnh ung thư sinh dục ở nữ giới trong độ tuổi sinh sản, sau ung thư vú.

Một nghiên cứu được thực hiện ở phụ nữ từ 35 đến 60 tuổi tại 7 tỉnh và thành phố tại Việt Nam từ năm 2008 đến 2010 cho thấy tỉ lệ mắc UTCTC tại thời điểm đó là 19,9 trường hợp trên 100.000 phụ nữ. Một nghiên cứu khác cho thấy trong năm 2014, Việt Nam có 35 triệu em gái và phụ nữ từ 15 tuổi trở lên có nguy cơ mắc bệnh UTCTC và đây là một thách thức lớn đối với ngành Y tế công cộng ở Việt Nam.

Còn theo ước tính của tổ chức Y tế thế giới, tính tới năm 2030 trên phạm vi toàn cầu, ước tính số ca tử vong do UTCTC sẽ lên tới 443.000 trường hợp. Con số này cao gấp đôi con số ước tính về tỉ lệ tử vong do các biến chứng liên quan tới sản khoa.

Phụ nữ cần được sàng lọc UTCTC

Theo GS.TS Lê Quang Cường – Thứ trưởng Bộ Y tế, với sự nỗ lực của Quỹ dân số Liên hợp quốc, Bộ Y tế đã xây dựng và ban hành kế hoạch hành động quốc gia về dự phòng và kiểm soát UTCTC giai đoạn 2016 - 2025. Kế hoạch hành động đưa ra những phương hướng, giải pháp và hoạt động chính để thực hiện có hiệu quả việc phòng ngừa, phát hiện sớm và điều trị kịp thời UTCTC tại Việt Nam”.

Cũng theo GS.TS Cường, ứng phó quốc gia toàn diện với UTCTC bao gồm dự phòng, sàng lọc và điều trị. Vắc xin HPV là yếu tố quan trọng trong công tác dự phòng UTCTC. Các bằng chứng cho thấy, phần lớn UTCTC có thể phòng ngừa một cách triệt để và việc tiêm phòng vắc xin HPV cho trẻ em gái ở độ tuổi 12 tuổi sẽ giúp ngăn ngừa 690.000 ca nhiễm UTCTC và ngăn ngừa được 420.000 ca tử vong trên toàn thế giới. Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo chú trọng vào việc tiêm HPV cho các em gái từ 9 đến 13 tuổi.

Đồng quan điểm với GS.TS Cường, bà Astrid Bant cho rằng, việc phát hiện sớm và điều trị kịp thời UTCTC đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc cứu mạng sống của người phụ nữ và cải thiện sức khỏe của họ một cách toàn diện. Ngoài ra, việc phát hiện và điều trị sớm UTCTC còn có những quan hệ tích cực tới việc thực hiện các mục tiêu về xóa đói, giảm nghèo, giáo dục và bình đẳng giới. Mọt thực tế cho thấy, UTCTC xuất hiện ở phụ nữ tại lứa tuổi tương đối trẻ và tỉ lệ tử vong tăng dần khi phụ nữ bước vào lứa tuổi 40. Tình trạng tử vong ở độ tuổi này khiến người phụ nữ mất đi nhiều năm tháng trong cuộc đời của mình, đồng thời gây ra những tổn thất nặng nề cho gia đình, cộng đồng và cho toàn bộ nền kinh tế.

“Rất nhiều người trong số những phụ nữ tử vong do căn bệnh này là những người có vai trò trụ cột trong gia đình hoặc là những người có trách nhiệm trông nom chăm sóc người khác vì thế khi họ không còn nữa, gia đình của họ sẽ phải gánh chịu những thiệt hại nặng nề về tài chính và tình cảm. Thu nhập trong gia đình giảm sẽ khiến trẻ em, nhất là trẻ gái phải bỏ học để phụ gia đình – chính điều này kéo dài vòng đói nghèo luẩn quẩn và kéo dài sự bất bình đẳng từ thế hệ này sang thế hệ khác” – bà Astrid nhận định.

Ngoài ra, bà Astrid Bant cho rằng, cần có thêm nhiều nỗ lực hơn nữa để không có người chồng nào mất đi người vợ của mình, các anh chị em trong gia đình mất đi người thân của mình, cha mẹ mất đi con gái của mình và những người con mất đi người mẹ của mình. Tất cả các phụ nữ đều có quyền được sàng lọc UTCTC. UNFPA và các đối tác phát triển cam kết sẽ tiếp tục thực hiện các hoạt động tư vấn chính sách và hỗ trợ kỹ thuật nhằm giúp Việt nam tạo dựng môi trường thuận lợi cho việc xây dựng các chính sách và luật pháp trong đó tôn trọng và đảm bảo quyền cho mọi người dân nhằm đảm bảo rằng “không có một ai bị bỏ lại phía sau”.

Thu Trang

Nguồn LĐTĐ: http://laodongthudo.vn/can-benh-cua-doi-ngheo-va-bat-binh-dang-gioi-45191.html