Cái giá nào cho vị trí 'con hổ mới' ở châu Á của kinh tế Việt Nam?

Bloomberg cho rằng, Việt Nam, nền kinh tế được mệnh danh là “con hổ mới” của châu Á sẽ sớm nhận ra những điều bất lợi khi lọt vào nhóm “những con hổ châu Á”.

Trong 8 năm qua, với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng gấp 2 lần, Việt Nam trở thành một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng đứng đầu thế giới và khu vực. Tuy nhiên, cái giá phải trả cho vị trí "con hổ mới" ở châu Á là Việt Nam sẽ không còn đủ điều kiện để nhận được những khoản vay ưu đãi từ các tổ chức quốc tế.

Kinh tế Việt Nam được mệnh danh là “con hổ mới” của châu Á. Ảnh: Bloomberg

Từ tháng 7/2017, Ngân hàng thế giới (WB) đã chấm dứt ưu đãi ODA với Việt Nam, chuyển chủ yếu sang sử dụng nguồn vay kém ưu đãi và tiến tới vay theo điều kiện thị trường. Hiện Việt Nam cũng được Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) xếp vào nhóm B, không còn thuộc diện chỉ nhận những khoản vay ưu đãi.

Trong bối cảnh nguồn vốn này bị cắt giảm, Việt Nam sẽ cần tới thị trường trái phiếu, điều này có thể làm gia tăng nguồn cung trong nhóm thị trường trái phiếu của các quốc gia mới nổi - vốn là mặt hàng hấp dẫn những nhà đầu tư trong thời gian gần đây.

Sebastian Eckardt, nhà kinh tế trưởng của WB nhận định, đây chính là 1 dấu hiệu rõ ràng cho thấy Việt Nam đã đạt được thành công đáng kể về phát triển kinh tế. Hiện là 1 nước có thu nhập trung bình, nhu cầu vốn đang tăng rất nhanh do đó vốn tài trợ sẽ không đủ để đáp ứng nhu cầu. Tỷ trọng vốn huy động được từ thị trường vốn phải tăng lên.

Ông Trương Hùng Long, Cục trưởng Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại của Bộ Tài chính cho biết, hiện Việt Nam đang lên kế hoạch mở rộng vay nợ trong nước. Ông cũng cho biết thị trường nội địa có thể đáp ứng nhu cầu tài chính ở thời điểm hiện tại, tuy nhiên trong tương lai sẽ cần các nhà đầu tư quốc tế tham gia các đợt phát hành thêm nợ nước ngoài.

Kinh tế Việt Nam hiện có quy mô 200 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng trên 6%. Theo Bloomberg, khoảng 70% trong số 13,2 tỷ USD trái phiếu mà Chính phủ đã phát hành là ở thị trường nội địa, niêm yết bằng VND. Phần còn lại niêm yết bằng đồng USD. Đợt phát hành trái phiếu quốc tế (niêm yết bằng USD) mới nhất là từ tháng 11/2014, khi 1 tỷ USD trái phiếu kỳ hạn 10 năm được bán ra với mức lợi suất 4,8%.

Khoảng 70% trong số 13,2 tỷ USD trái phiếu mà Chính phủ Việt Nam đã phát hành là ở thị trường nội địa, niêm yết bằng VND.

Do bị cả 3 tổ chức xếp hạng tín nhiệm hàng đầu thế giới xếp hạng ở mức thấp hơn so với các quốc gia Đông Nam Á khác như Indonesia và Philippines (các nước này đang được xếp hạng đáng để đầu tư), lợi suất của trái phiếu Việt Nam hiện ở mức cao hơn.

Theo số liệu của Bộ Tài chính, đến năm 2020, Việt Nam sẽ nhận được tổng cộng 45 tỷ USD vốn hỗ trợ phát triển, nguồn vốn được cấp từ năm 2005.

Số vốn ròng mà Việt Nam nhận được từ các khoản vay ưu đãi và viện trợ chính thức từ năm 1960 đến nay.

Trước năm 2010, thời hạn trả nợ trung bình đối với các khoản vay từ 30 đến 40 năm, với lãi suất 0,7 - 0,8% mỗi năm. Khi GDP của Việt Nam tăng lên, các điều khoản trở nên ngặt nghèo hơn, từ năm 2011-2015, lãi suất các khoản vay tăng lên 2%, và thời hạn trả nợ rút ngắn còn từ 10-20 năm.

Đến khi các điều kiện ưu đãi không còn, lãi suất đối với các khoản vay bị đẩy lên 3,5% mỗi năm, và thời hạn thanh toán bị rút ngắn một nửa.

Theo ông Andy Ho, CIO kiêm Giám đốc điều hành của quỹ VinaCapital, ngoài việc tham gia vào thị trường vốn, Việt Nam cũng sẽ tìm đến những cách khác như bán tài sản và cải cách thuế. “Có thể vay từ thị trường quốc tế, nhưng vay quá nhiều sẽ rất nguy hiểm”, ông Andy Hồ nhận xét.

Trâm Anh

Nguồn GĐ&PL: http://giadinhphapluat.vn/cai-gia-nao-cho-vi-tri-con-ho-moi-o-chau-a-cua-kinh-te-viet-nam-p52716.html