Bệnh vẩy nến và mối liên quan với thuốc

Ảnh hưởng của thuốc đối với bệnh vảy nến có thể khác nhau

Phát ban da do thuốc là một trong những phản ứng phụ phổ biến nhất khi điều trị, với một tần suất 2-3% trong những bệnh nhân nhập viện. Hầu như bất kỳ thuốc nào cũng có thể gây ra phản ứng da, và một số loại thuốc như là thuốc kháng viêm không steroid, kháng sinh, thuốc chống động kinh có tỷ lệ phát ban do thuốc xấp xỉ từ 1% đến 5%.

Ảnh hưởng của thuốc đối với bệnh vảy nến có thể khác nhau:

- Thuốc có thể kích hoạt bệnh ở bệnh nhân mang gen bệnh vảy nến.

- Thuốc có thể kích hoạt bệnh ở bệnh nhân không mang gen bệnh vảy nến.

- Thuốc có thể làm trầm trọng sang thương vảy nến hiện có.

- Thuốc có thể làm bùng phát vảy nến trên da bình thường trên lâm sàng ở bệnh nhân vảy nến.

Xét về mối liên quan giữa thuốc và bệnh vảy nến, những thuốc điều trị có thể được phân nhóm như sau:

- Những thuốc có bằng chứng mạnh mẽ đã được báo cáo về mối liên quan với nguyên nhân gây bệnh vảy nến bao gồm lithium, thuốc ức chế bê-ta, và thuốc kháng sốt rét tổng hợp.

- Những thuốc có các nghiên cứu đáng kể nhưng không đủ dữ liệu để ủng hộ cho việc thuốc gây ra hay làm nặng thêm bệnh vảy nến.

- Những thuốc đôi khi được báo cáo là có liên quan với việc gây ra hay làm nặng thêm bệnh vảy nến.

Giáo sư, Tiến sĩ, Bác sĩ Michael Tirant tư vấn miễn phí cho bệnh nhân nghèo

Giáo sư, Tiến sĩ, Bác sĩ Michael Tirant tư vấn miễn phí cho bệnh nhân nghèo

Thuốc làm kích hoạt vảy nến có thể chia làm 2 loại:

Thuốc gây ra bệnh vảy nến: việc ngừng loại thuốc này sẽ giúp tình trạng bệnh không bị tiến triển xấu hơn nữa. Dạng này có khuynh hướng xảy ra theo một kiểu mới ở bệnh nhân không có tiền sử gia đình hay tiền sử trước đây bị bệnh vảy nến. Biểu hiện lâm sàng của những sang thương thường giống với vảy nến thể mủ, thường không có tổn thương ở móng hay kết hợp với viêm khớp.

Thuốc làm trầm trọng bệnh vảy nến: làm cho bệnh tiến triển thậm chí ngay cả khi ngưng dùng loại thuốc đó, và thường xảy ra ở bệnh nhân có tiền sử bị vảy nến hay có mang gen gây bệnh vảy nến. Bệnh nhân có thể bị sang thương vảy nến tồn tại trước đó trở nên tồi tệ hơn, hoặc phát triển những sang thương mới trên vùng da chưa bị ảnh hưởng trước đây. Xét nghiệm mô học cho thấy, những đặc điểm đặc trưng hơn của vảy nến thông thường.

Hai phản ứng trên không được nhầm lẫn với “phát ban do thuốc có dạng vảy nến”. Đây là một thuật ngữ đề cập đến một nhóm bệnh mà trên lâm sàng và/hay trên xét nghiệm mô học giống với bệnh vảy nến ở vài điểm trong quá trình bệnh. Loại phát ban này thường kết hợp với viêm da tiết bã, vảy nến đỏ nang lông, giang mai thứ phát, vẩy phấn hồng, nhiễm nấm, và một số bệnh ác tính.

Điều trị bệnh vảy nến bằng phương pháp Dr Michaels thảo dược trong 8 tuần

Một số thuốc gây ra hay làm nặng thêm bệnh vảy nến:

Mặc dù nhiều thuốc đã được gợi ý là gây kích hoạt bệnh vảy nến, bằng chứng mạnh mẽ nhất là lithium, thuốc ức chế bê-ta, thuốc kháng sốt rét, thuốc kháng viêm không steroid, và Tetracycline. Thêm vào đó, thuốc ức chế men chuyển, Interferons, Digoxin, Clonidine, Carbamazepine, Valproic acid, thuốc ức chế kênh Calcium, yếu tố kích thích khúm bạch cầu hạt, Potassium Iodide, Ampicillin, Penicillin, Progesterone, Morphine, và Acetazolamide đã được báo cáo là làm nặng thêm bệnh vảy nến.

Nguồn Đất Việt: http://baodatviet.vn/doi-song/benh-vay-nen-va-moi-lien-quan-voi-thuoc-3321209/