Bắc Từ Liêm - Hà Nội: Thu hồi đất nhưng 7 hộ dân không được đền bù?

Theo đơn kiến nghị của 7 hộ dân trong danh sách phải thu hồi đất để thực hiện dự án phản ánh về việc có quyết định thu hồi đất tuy nhiên lại không có phương án bồi thường, hỗ trợ.

Vừa qua, Báo Kinh doanh & Pháp luật nhận được Đơn kiến nghị của 7 hộ dân trong danh sách phải thu hồi đất để thực hiện dự án: Đầu tư mở rộng Vành đai III đoạn Mai Dịch - Cầu Thăng Long, tại Công ty Cổ phần xây dựng số 2 Thăng Long trên địa bàn phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Nội dung đơn thư phản ánh vấn đề về việc 7 hộ dân có quyết định thu hồi đất tuy nhiên lại không có phương án bồi thường, hỗ trợ.

Cụ thể nội dung “Đơn kiến nghị” như sau: 7 hộ gia đình nêu trên (gồm: Trần Thị Thủy, Nguyễn Thị Huệ, Nguyễn Thị Lương, Nguyễn Hồng Phong, Nguyễn Xuân Tiềng, Nguyễn Văn Bình, Phạm Quốc Cường) có đất thuộc Xí nghiệp kiến trúc Thăng Long (nay là Công ty Cổ phần xây dựng số 2 Thăng Long) trên địa bàn tổ dân phố Hoàng 17, phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm, được thông báo là nằm trong diện thu hồi đất để thực hiện dự án Đầu tư mở rộng Vành đai III đoạn Mai Dịch - Cầu Thăng Long.

Tổ dân phố Hoàng 17 (phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm) nơi có diện tích đất của 7 hộ gia đình đang sử dụng và được thông báo là nằm trong diện thu hồi.

Ngày 10/9/2016, 7 hộ gia đình nhận được Thông báo số 152/TB-HĐBTHT& TĐC của Hội đồng bồi thường, hỗ trợ do bà Nguyễn Thị Liên, trưởng Ban bồi thường giải phóng mặt bằng (GPMB) ký.

Theo dự thảo phương án bồi thường, hỗ trợ nêu trên, cả 7 gia đình lại không được bồi thường, hỗ trợ về đất với diện tích đất bị thu hồi mà chỉ được bồi thường, hỗ trợ công trình xây dựng trên đất mặc dù diện tích đất của 7 hộ gia đình đang sử dụng có nguồn gốc là của Xí nghiệp Kiến trúc Thăng Long nay là Công ty Cổ phần xây dựng số 2 Thăng Long.

Tháng 12/1991, lãnh đạo Xí nghiệp có thông báo về việc cho thuê đất trước nhà làm việc cho cán bộ công nhân viên Xí nghiệp quản lý sử dụng.

Ngày 14/12/1991, Xí nghiệp tổ chức đấu thầu theo quy định của Công ty và 7 gia đình này đã trúng thầu, đã nộp đầy đủ tiền đấu thầu thuê đất cho Công ty.

Ngày 31/12/1991, ông Thân Văn Dũng (Phó Giám đốc Xí nghiệp Kiến trúc Thăng Long) đã ký Quyết định giao cho 7 gia đình sử dụng đất.

Từ khi nhận bàn giao từ năm 1992 đến nay (gần 25 năm), các hộ gia đình sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp, đóng thuế sử dụng đất cho Công ty theo quy định, Công ty cũng đã đóng thuế cho UBND xã Cổ Nhuế (nay là phường Cổ Nhuế).

Ngày 26/9/2016, các hộ dân được triệu tập cuộc họp đối thoại giữa Ban bồi thường giải phóng mặt bằng, UBND phường Cổ Nhuế 1 và các hộ gia đình có đất bị thu hồi. Qua nội dung cuộc đối thoại, đối chiếu với các quy định của Luật Đất đai năm 2013 và các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành, 7 hộ gia đình nêu trên có một số kiến nghị như sau: Tại cuộc đối thoại ngày 26/9/2016, cán bộ đại diện chính phường Cổ Nhuế 1 cho biết: Tất cả các mảnh đất hiện 7 gia đình đang sử dụng từ đầu năm 1992, là đất giao cho Công ty Cổ phần xây dựng số 2 Thăng Long và đất đó là đất không được xây dựng công trình. UBND phường Cổ Nhuế 1 cũng đã xác nhận thông tin này với Ban bồi thường, giải phóng mặt bằng và đó là lý do các hộ gia đình không nhận được bất cứ bồi thường, hỗ trợ nào về đất.

Các hộ dân cùng thảo Đơn kiến nghị gửi tới báo chí.

Trích dẫn kiến nghị trong đơn thư của 7 hộ dân như sau:

“Thứ nhất: Quan điểm của cán bộ địa chính cho rằng đất chủ 7 gia đình chúng tôi đang sử dụng là do UBND thành phố Hà Nội giao cho Xí nghiệp kiến trúc Thăng Long (nay là Công ty cổ phần số 2 Thăng Long) và đất đó là đất không được xây dựng công trình nên không được bồi thường, hỗ trợ về đất khi thu hồi. Quan điểm này không phải là căn cứ pháp lý để quyết định không bồi thường về đất khi nhà nước thu hồi đất theo quy định của pháp luật. Đề nghị viện dẫn văn bản pháp luật quy định về nội dung trên.

Cần phải khẳng định diện tích đất của 7 hộ gia đình chúng tôi đang sử dụng là đất giao không đúng thẩm quyền, sử dụng ổn định trước ngày 15/10/1993, không có tranh chấp, đã nộp tiền sử dụng đất, mà chưa được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì thuộc trường hợp được bồi thường, hỗ trợ về đất khi Nhà nước thu hồi, được quy định chi tiết tại khoản 1,2 Điều 23 Nghị định số 43; Khoản 1 Điều 11 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ và điểm c khoản 1 Điều 7 Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ Tài nguyên - Môi trường. Cụ thể:

Thứ nhất: Khoản 1,2 Điều 23 Nghị định số 43 quy định: 1. Đất giao không đúng thẩm quyền cho hộ gia đình, cá nhân quy định tại Điều này báo gồm các trường hợp người đứng đầu điểm dân cư giao đất hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã giao đất không đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật về đất đai qua các thời kỳ; tổ chức Nhà nước giao đất, cho thuê đất để sử dụng nhưng đã tự phân phối, bố trí cho cán bộ, công nhân viên, xã viên để sử dụng làm nhà ở và các mục đích khác.

Trường hợp đất được giao không đúng thẩm quyền đã được sử dụng ổn định trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch thì người đang sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với diện tích đất đã được giao theo quy định tại Khoản 1 Điều 20 của Nghị định này.

Khoản 1 Điều 11 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định: “Đất giao không đúng thẩm quyền trước ngày 1/7/2004 nhưng người đang sử dụng đất đã nộp tiền để được sử dụng đất mà chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì việc bồi thường, hỗ trợ về đất được thực hiện theo quy định sau:

Trường hợp sử dụng đất trước ngày 15/10/1993 thì người đang sử dụng đất được bồi thường về đất đối với diện tích đất và loại đất được giao. Điểm c khoản 1 Điều 7 Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 quy định chi tiết về bồi thường hỗ trợ, tái định cơ khi Nhà nước thu hồi đất quy định “Điều 7. Giấy tờ xác định về việc đã nộp tiền để được sử dụng đất đối với trường hợp đất được giao không đúng thẩm quyền trước ngày 01/7/2004.

Việc xác định đã nộp tiền cho cơ quan, tổ chức để được sử dụng đất đối với trường hợp đất được giao không đúng thẩm quyền trước ngày 01/7/2004 quy định tại Điều 11 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP phải căn cứ vào một trong các loại giấy tờ sau đây: Biên lai, phiếu thu, hóa đơn hoặc các loại giấy tờ khác do UBND cấp xã hoặc cơ quan, tổ chứ giao đất không đúng thẩm quyền các lập tại thời điểm thu tiền.

Thứ hai: Các hộ gia đình khi được Xí nghiệp kiến trúc Thăng Long (Công ty Cổ phần xây dựng số 2 Thăng Long) giao đất năm 1992. Trong quyết định không nêu rõ đất đó là đất không được xây dựng công trình. Chỉ đến ngày hôm nay khi tổ chức đối thoại (sau hơn 25 năm), UBND phường mới công bố là đất không được xây dựng công trình mà không có văn bản pháp luật viện dẫn là không có căn cứ pháp lý.

Ngoài ra, sau khi nhận đất ngày 10/01/1992, các hộ gia đình đều đã xây dựng nhà ở, công trình từ năm 1992, sử dụng từ đó cho đến nay mà UBND xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm trước đây và nay là UBND phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm chưa từng có bất cứ một thông báo hay văn bản nào nói rằng việc xây dựng nhà ở, công trình của 7 hộ gia đình chúng tôi là không được phép, không hợp pháp; cũng không có bất cứ văn bản xử lý vi phạm nào về việc xây dựng công trình không phép, vi phạm quy hoạch hay vi phạm hành lang an toàn giao thông theo quy định của các văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

Do đó, việc xây dựng trên đất không được xây dựng công trình (nếu có) của 7 gia đình chúng tôi là do lỗi của cơ quan quản lý nhà nước, cụ thể là UBND xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm (nay là phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm), chứ không phải lỗi của nhân dân.

Từ những điểm nêu trên, 7 hộ gia đình đề nghị UBND quận Bắc Từ Liêm, Hội đồng BTHT & TĐC quận Bắc từ Liêm xem xét bồi thường, hỗ trợ cho chúng tôi theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 8 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/4/2014 về thu tiền sử dụng đất trong trường hợp thu tiền sử dụng đất cho hộ gia đình cá nhân đối với đất ở có nguồn gốc được giao không đúng thẩm quyền trước ngày 1/7/2004.

Đồng thời, các gia đình cũng mong muốn UBND quận Bắc Từ Liêm, Hội đồng BTHT&TĐC quận Bắc Từ Liêm xem xét, giải quyết các vấn đề liên quan đến bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thực hiện thu hồi đất của gia đình chúng tôi theo đúng khoản 3 Điều 74 Luật Đất đai 2013 “Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải đảm bảo dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật”.

Báo Kinh doanh & Pháp luật xin chuyển nội dung phản ánh trên tới các cơ quan chức năng có thẩm quyền và đề nghị các cơ quan giải quyết những kiến nghị của các hộ dân theo đúng các quy định của pháp luật, tránh để tình trạng đơn thư kéo dài.

BBĐ/KD&PL

Nguồn GĐ&PL: http://giadinhphapluat.vn/bac-tu-liem-ha-noi-thu-hoi-dat-nhung-7-ho-dan-khong-duoc-den-bu-p41338.html