Ăn Tết nhảy với người Dao Ba Vì

Từ rằm tháng Chạp trở đi, đến xã Ba Vì, huyện Ba Vì, TP Hà Nội chúng ta được ăn Tết nhảy – Tết đặc biệt của người Dao bên Núi Tản, Sông Đà, nghe điệu dân ca đắm lòng và say trong vũ điệu độc đáo của múa chuông, múa rùa – chỉ người Dao mới có… Vốn văn hóa đó bắt nguồn từ truyền thuyết về Sơn Tinh – người anh hùng trị thủy, người khai sáng văn hóa, được tôn vinh là vị thần của Núi Tản – đứng đầu “tứ bất tử” trong tâm thức người Việt…

Theo Bí thư Đảng ủy xã Ba Vì, người Dao thờ Đức Thánh Tản với lòng ngưỡng mộ và những nghi lễ đặc biệt. Ước vọng cùng lúc vừa được hưởng lộc đức Thánh phù hộ vừa ghi nhớ công đức tổ tiên, mỗi gia đình, dòng họ của người Dao Ba Vì đều lập bàn thờ Thánh Tản chung với bàn thờ Tổ. Không chỉ vậy, mỗi bản Dao còn có một miếu thờ Thánh Tản do một ông thầy cúng (ông mo) trông coi.

Hằng năm, người Dao tổ chức tế lễ đức Thánh Tản bốn lần vào bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Ngày đó, tất cả gia đình trong bản đều góp gạo, rượu, gà làm lễ chung dâng lên bàn thờ Thánh, thỉnh cầu một năm bình yên, mùa màng tươi tốt, bội thu. Hạ lễ, cả làng ăn “bữa tiệc cộng đồng” và múa hát chung vui. Khắp vùng Núi Tản dậy lên không khí rộn ràng của tiếng chuông, tiếng thanh la, chũm chọe quyện trong điệu múa, điệu nhảy. Những khúc dân ca “ôn nghèo kể khổ” hoặc tỏ tình đôi lứa, cũng từ đó được cất lên. Người Dao hát như dốc cả tấm lòng, như gọi về một thời khổ cực, sống du canh, du cư giống “con chim lạc ngàn” lang thang các triền núi; lá trên mái lều chưa héo đã lại rời đi: “Người Dao ta không có đất/ Lam lũ chạy theo núi rừng/ Đói nghèo bám chặt vào lưng…”. Hát để trao gửi tình cảm, bộc bạch lời yêu thương: “Anh khổ không ai giúp/ Em có lòng giúp đỡ anh không/ Bao giờ mặt trời mới chiếu đến bản của anh?”. Và khát khao một cuộc sống đủ đầy: “Anh lo thì em cùng lo/ Anh lo sao có cơm no, đất cày/ Em lo nương rẫy luôn tay/ Mong sao Xuân tới được ngày hát vui”…

Trưởng ban Văn hóa xã Ba Vì kể rằng, người Dao quê anh coi “bữa tiệc cộng đồng” không chỉ là cuộc tập dượt nghi thức tế lễ mà còn là trường dạy múa, dạy hát cho các thế hệ người Dao. Tết nhảy (Nhiang chằm đao) là Tết đặc biệt của người Dao, do một gia đình người Dao đăng cai và được cả bản tham dự. Tết nhảy diễn ra dưới hình thức như lễ hội (có phần lễ và phần hội). Phần hội có hát múa linh đình, cả bản thay nhau hát múa. Trước đây lo được một Tết nhảy rất tốn kém, phải tổ chức liền trong ba năm. Năm đầu tổ chức một ngày, một đêm; năm thứ hai hai ngày, hai đêm; năm thứ ba ba ngày, ba đêm. Nhiều gia đình nghèo, tổ chức xong Tết là đeo nợ từ đời cha sang đời con, thậm chí sang đời cháu chưa trả hết, chịu cảnh nghèo đói quanh năm. Nay, Tết nhảy đơn giản hơn nhiều; gia đình nào đến lượt mà có đủ điều kiện thì mới đăng cai và chỉ gọn 3 ngày, 3 đêm một lần Tết; cũng không phải chờ khi có Tết mới được xem múa rùa, múa kiếm, múa chuông mà những điệu múa này đã được cải biên minh họa cho hát dân ca, diễn trong mùa lễ hội và diễn tại các liên hoan văn nghệ quần chúng từ huyện đến toàn quốc, mang về nhiều phần thưởng quý báu, nhưng trên hết, nó trở thành một sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu của người Dao Ba Vì.

Tết đặc biệt của người Dao bên Núi Tản, Ba Vì.

Tổ chức Tết nhảy phụ thuộc vào những điều kiện có tính bắt buộc liên quan đến thờ tự và việc lập bàn thờ, tốn kém và lễ nghi. Cách thờ tự của người Dao rất độc đáo, bàn thờ không đặt giữa nhà mà đặt ở góc nhà (được coi là nơi linh thiêng); không chỉ có một bàn thờ mà là hai. Bàn thờ nhỏ, nhà nào cũng có; nhưng để dựng bàn thờ lớn phải dư dật của cải. Trước đây, dựng bàn thờ lớn phải mổ 3 con lợn, 5 con gà, thầy mo đến cúng một ngày một đêm, cúng xong mời cả bản uống rượu, ca hát, nhảy múa; phải có đủ hai bộ tranh thần (bộ tranh thần nhỏ được sắm từ năm trước; bộ tranh thần lớn sắm vào năm sau). Mỗi lần sắm tranh là một lần gia đình đó phải mổ 3 con lợn, 6 con gà, mời 3 ông thầy cúng chay hai ngày hai đêm. Sau đó phải thêm lễ tạ mả nữa thì mới có bàn thờ lớn và chỉ khi có bàn thờ lớn rồi mới thành nhà Tổ. Khi đó gia chủ mới được làm Tết nhảy. Để lo Tết nhảy, nhiều gia đình mất hàng chục năm mới mua đủ hai bộ tranh thờ; tổ chức xong Tết thường khánh kiệt. Gia đình người Dao nào cũng đến lượt đăng cai làm Tết nhảy, vì vậy mà năm nào cũng có “bữa tiệc cộng đồng”, làm nên sắc thái văn hóa riêng của người Dao Ba Vì…

Năm 1964, cuộc cách mạng hạ sơn đã đem lại sự thay đổi lớn của người Dao. Từ trồng rừng, chăn nuôi, trồng cây thuốc Nam… thu nhập của người Dao ổn định từng bước. Nhiều hộ đi đầu trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế, buôn bán thuốc Nam… Đặc biệt, thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” tuy mỗi nơi đều có phong tục riêng, bản sắc riêng nhưng nhiều nghi lễ, hủ tục lạc hậu đã được cởi bỏ, đem đến cho người Dao sự tự tin thoải mái, thanh thản về tinh thần. Vì vậy họ đến với cuộc vận động xây dựng nếp sống văn hóa mới cũng nhanh hơn. Từ năm 1998, làng Dao Yên Sơn đã được UBND tỉnh Hà Tây công nhận là Làng Văn hóa, hai làng Hợp Nhất và Hợp Sơn cùng nhiều bản làng người Dao khác cũng đã đạt danh hiệu văn hóa. Đặc biệt, các hoạt động văn hóa thể thao được xã coi trọng đã giúp con em bản Dao tránh xa các tệ nạn xã hội, cùng chung sức xây dựng nông thôn mới.

Hơn 6.580 hộ dân, 25.000 nhân khẩu, người Dao chiếm 98% dân số xã Ba Vì đã và đang đoàn kết phấn đấu để có đời sống kinh tế và tinh thần phong phú hơn. Lòng dân hợp ý Đảng – Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ huyện Ba Vì đề ra mục tiêu phát triển kinh tế vùng du lịch sinh thái, du lịch văn hóa sẽ đem lại nhiều cơ hội cho người Dao phát triển kinh tế đi đôi với phát huy nét văn hóa truyền thống, giàu bản sắc của mình…

Phạm Sỹ Đạt

Nguồn Báo Người cao tuổi: http://nguoicaotuoi.org.vn/van-hoa-du-lich/an-tet-nhay-voi-nguoi-dao-ba-vi.html