Một số biện pháp xử lý nước ao nuôi tôm, cá

Năm 2010, Việt Nam xuất khẩu được 1,353 triệu tấn thủy, hải sản, thu được hơn 5 tỷ USD, tăng 11,3% về khối lượng và 18,4% về giá trị so với 2009, trong đó ĐBSCL tiếp tục là khu vực đóng góp nhiều nhất. Tuy nhiên vùng này cũng đang phải gánh chịu sự suy giảm chất lượng nước ô nhiễm môi trường do việc bùng phát thâm canh nuôi trồng thủy sản trong suốt hai thập niên qua.

Một cách tính gần đúng, muốn có 1 kg cá da trơn thành phẩm, người nông dân đã phải sử dụng khoảng 3 – 5 kg thức ăn. Thực tế chỉ khoảng 17- 20% thức ăn được cá hấp thu và phần còn lại (chừng 80%) lẫn trong môi trường nước, lắng xuống đáy và trở thành các chất hữu cơ phân hủy. Đối với các ao nuôi công nghiệp, chất thải trong ao có thể chứa 45% ni tơ và 22% chất hữu cơ khác. Số liệu quan trắc ở các ao, đầm nuôi cho thấy nồng độ các chất ô nhiễm như oxy sinh hóa (BOD5), oxy hóa học (COD), tổng lượng chất rắn lơ lửng (TSS), đạm tổng số (TKN), H2S, NH3, tổng số Coliform, ... vượt xa mức cho phép của tiêu chuẩn Việt Nam. Nước ô nhiễm cũng đã dẫn đến sự gia tăng nguồn bệnh chính cho người và thủy sản. Vì vậy, việc xử lý nước trong quá trình nuôi trồng thủy sản có ý nghĩa rất quan trọng. 1/ Xử lý nước trong nuôi cá: Phương pháp xử lý cao phân tử (pp Purolite tốc độ cao), các chất ô nhiễm lơ lửng hay hòa tan trong nước sau khi được xử lý sẽ lắng xuống đáy và được loại ra ngoài. Ở những nơi có mặt bằng có thể áp dụng phương pháp xử lý lọc nước thải qua khu đất ngập nước chảy ngầm kiến tạo. Và một phương pháp được khuyến cáo trong việc xử lý môi trường nước trong nuôi cá có hiệu quả cao là sử dụng chế phẩm sinh học như sử dụng chế phẩm Navet – Biozym. 2/ Xử lý nước trong nuôi tôm: Sau khi bơm nước, vệ sinh xử lý ao hồ, bón vôi, diệt tạp, bà con cần xử lý nước trước khi tiến hành nuôi. Chọn con nước tốt (thời điểm không xảy ra dịch bệnh, không phát sáng, nhiều váng bọt.. ) lấy nước vào ao lắng qua lưới, lọc để ngăn bớt bùn, phù sa, giáp xác hoặc một số vi sinh vật có hại khác... Giữ nước 3 – 5 ngày, mục đích để trứng của các loài địch hại nở. Diệt giáp xác, diệt cá. Diệt mầm bệnh (dùng các thuốc sát trùng như Benkocid , BKA...) Gây màu nước (bón phân NPK , Ure , DAP... ) Cấy vi sinh (dùng chế phẩm sinh học như Navet- Biozim ...) 3/ Sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản: Sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản là một TBKT, bước rất quan trọng góp phần nâng cao chất lượng môi trường nước vì khi đưa chế phẩm sinh học vào nước ao, các vi sinh vật có lợi sẽ sinh sôi, phát triển nhanh chóng, việc này sẽ có tác dụng như sau: + Phân hủy các chất hữu cơ trong nước. + Giảm các chất độc trong nước (khí NH3 , H2S .. ) làm giảm mùi hôi trong nước, giúp tôm, cá phát triển tốt. + Nâng cao khả năng miễn dịch cho tôm, cá + Ức chế sự phát triển của vi sinh vật có hại. + Giúp ổn định độ pH nước, ổn định màu nước, tăng lượng oxy hòa tan trong nước. Việc sử dụng chế phẩm sinh học sẽ có ý nghĩa nhiều mặt trong việc nâng cao hiệu quả kinh tế trong nuôi trồng thủy sản như: Tăng hiệu quả sử dụng thức ăn. Tôm, cá mau lớn, rút ngắn thời gian nuôi Tăng tỷ lệ sống, tăng năng suất tôm, cá Giảm chi phí thay nước Giảm chi phí sử dụng kháng sinh, hóa chất. Do đó việc sử dụng chế phẩm sinh học để cải thiện chất lượng nước và phòng bệnh cho tôm, cá là một việc thiết thực cần được áp dụng thường xuyên nhằm giúp cho các sản phẩm thủy sản đạt được tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh thực phẩm khi đưa ra thị trường phục vụ cho người tiêu dùng.

Nguồn Nông Nghiệp: http://nongnghiep.vn/nongnghiepvn/vi-vn/61/158/1/1/1/78383/default.aspx