Khủng hoảng kinh tế theo quan điểm lịch sử

Một nước nào đó trải qua càng nhiều chấn động kinh tế, càng nhiều điểm yếu được loại bỏ, và khi kinh tế thoát khỏi khủng hoảng, càng khỏe mạnh hơn trước...

Câu chuyện về doanh nghiệp đóng cửa, thất nghiệp tăng lên, ngân hàng sụp đổ, hệ thống thanh toán thất bại, tăng cường tích tụ nhiều hàng hóa không bán được trên thị trường, phá giá tiền tệ, ... đã trở nên rất cũ. Theo quan điểm lịch sử thì khủng hoảng kinh tế hiện nay chẳng phải là một hiện tượng siêu nhiên. Khủng hoảng trong kinh tế là quá trình thông thường, tiến triển phụ thuộc sự vận động bên trong của hệ thống kinh tế. Luật chu kỳ Bất kỳ khủng hoảng nào cũng chỉ xuất hiện khi bị mất thăng bằng, bị mất cân đối giữa những phần cấu thành sự thống nhất. Trong phạm trù kinh tế thì khủng hoảng xuất hiện khi thăng bằng giữa cầu và cung của hàng hóa hoặc dịch vụ bị mất. Ảnh cafeF Có bao nhiêu lý thuyết về kinh tế, thì có bấy nhiêu loại khủng hoảng kinh tế. Và gần như tất cả các lý thuyết đều nói là không thể tránh khỏi khủng hoảng kinh tế được. Nó là một phần của hệ thống kinh tế và sẽ chỉ biến mất khi chúng ta xóa bỏ luật lệ kinh tế theo kiểu mẫu thị trường và kế hoạch. Trường phái tự do chủ nghĩa khẳng định rằng kinh tế có tính chất chu trình, có thời kỳ phát triển và đổ vỡ, bởi vì nhu cầu tiêu dùng và đầu tư có dạng sóng. Còn chủ nghĩa Mác khẳng định rằng khủng hoảng tài chính là thuộc tính cần thiết của chủ nghĩa tư bản, vì mục tiêu chính trong hệ thống của chủ nghĩa tư bản đã khởi sự là phải thu lợi nhuận. Mô tả dưới dạng sơ đồ thì nó thể hiện câu chuyện như sau: mức độ sản xuất hàng hóa tăng lên và vượt nhu cầu tương ứng khả năng thanh toán thực tế, dẫn tới chuyện phải cho vay tiền để mua hàng hóa với mục tiêu tăng cầu. Nợ nần dần dần tích lũy, tiền-hàng hóa không cho vay được nữa và sự sản xuất rút ngắn lại vì không cần thiết. Bắt đầu quá trình sa thải nhân viên-công nhân với quy mô lớn, tỷ lệ thất nghiệp tăng lên, mức độ sung túc trong cuộc sống và sinh hoạt sụt giảm. Chu kỳ như thế này của hệ thống kinh tế chủ nghĩa tư bản là định lý. Những thời kỳ phát triển mạnh mẽ và suy sụp chuyền từ tay nọ sang tay kia. Các nhà bác học đã cố gắng tìm hiểu lý do của những khủng hoảng từ lâu, nhưng chưa có kết quả. Mỗi trường hợp là một câu chuyện khác nhau. Nhìn lại lịch sử Giáo sư đại học Oksford, nhà lịch sử học Phillip Kay cho rằng khủng hoảng tài chính đầu tiên trong lịch sử đã nổ ra vào thời kỳ đế chế La Mã năm 88 trước Công Nguyên. Khủng hoảng kinh tế đã diễn ra vào thời Trung cổ (Florence, năm 1342), thời đại Phục hưng (Venice, năm 1492), thời kỳ Cận đại (Pháp, năm 1720). Nhưng cho đến giữa thế kỷ 19, những hiện tượng đó mang tính chất địa phương là chủ yếu. Trong quá trình hình thành chủ nghĩa tư bản, tần số và sự ảnh hưởng của chúng tăng lên. Nhưng điều chính là tất cả những khủng hoảng đó đều được khắc phục. Và cứ mỗi lần một quốc gia nào đó thoát khỏi cuộc khủng hoảng thì nó lại trở nên hùng mạnh hơn trước khi rơi vào khủng hoảng. Khủng hoảng vào năm 1825 được coi là thảm họa tài chính toàn thế giới đầu tiên. Sau khi cuộc diễu hành giành độc lập đã lan đến Mỹ Latin, châu Âu đã nhập thêm vốn-tư bản cho lục địa đó, dẫn đến xuất khẩu và các món nợ quốc gia của những nước cộng hòa mới này tăng lên. Số vàng và bạc kiếm được ở Mỹ đã chuyển về cho nước Anh. Sự đầu cơ đông đảo vào các kim loại quý hiếm đã làm cạn kiệt các ngân hàng nước Anh và dẫn đến phá sản thị trường vốn. Khủng hoảng đã lan ra phần lớn lãnh thổ Tây Âu và Mỹ Latin. Khủng hoảng trong thị trường chứng khoán năm 1836-1837 đã bao phủ những quốc gia Anh, Đức và Hà Lan, gắn bó với những vốn đầu tư vô căn cứ được góp vào sự phát triển của những đường xe lửa. Và kết quả là toàn bộ hệ thống ngân hàng những nước đó bị tổn thương nghiêm trọng. Vào năm 1857 một trong những khủng hoảng có quy mô lớn nhất thế kỷ 19 bùng nổ. Những công ty đường xe lửa bị phá sản hoàn toàn dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng quốc gia nhiều nước, rồi đến sự sập đổ của hệ thống ngân hàng toàn châu Âu. Lý do khủng hoảng tiền tệ năm 1861 ở Mỹ là cuộc nội chiến giữa miền Nam và miền Bắc. Nhà nước đã không thể thanh toán được văn tự nợ sau khi vay ngân hàng. Khủng hoảng đã xuất hiện và kéo dài đến cuối cuộc chiến tranh. Vào năm 1914 khủng hoảng tài chính tiếp theo bùng lên. Nhà nước Mỹ và phần lớn những nước châu Âu đã bán tống bán tháo ngân phiếu nhiều quốc gia khác để cung cấp cho những hoạt động quân sự của nước mình. Ảnh Saga Thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới hoàn toàn là khủng hoảng kinh tế. Thời kỳ Đình Trệ năm 1920-1922 và giai đoạn Đình Đốn Vĩ Đại năm 1929-1933 đã tác động đến đời sống mọi giới con người. Mùng 4 tháng 10 năm 1929 (“Thứ năm đen”), ở thị trường chứng khoán Niu-Yoóc, giá chứng khoán giảm đi 60-70%. Cùng lúc đó, nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng của Mỹ đã sụp đổ nhanh chóng. Đến cuối tháng, những người giữ cổ phiếu bị mất hơn 15 tỷ đô-la, còn đến cuối năm giá chứng khoán sụt xuống 40 tỷ đô-la – số tiền khổng lồ vào thời điểm đó. Ngay tiếp sau đó, khủng hoảng bùng lên cả ở châu Âu. Vào năm 1933, ở những nước phát triển có tới hơn 30 triệu người chính thức không có việc làm. Khủng hoảng năm 1957-1958 lan tràn ra Mỹ, Canada và những nước Tây Âu. Sản xuất công nghiệp thế giới giảm đi 4%. Kinh tế Mỹ vào năm 1973-1974 bị thu hẹp lại và giống như trong thời kỳ Đình Đốn Vĩ Đại. Khủng hoảng bao trùm toàn bộ châu Âu. Ở Anh giá chứng khoán giảm đi 56%. Tình hình còn trầm trọng thêm vì khủng hoảng dầu mỏ kèm theo, giá một thùng dầu tăng từ 3 lên thành 12 đô-la. Ngày 19 tháng 10 năm 1987 được ghi nhớ ở lịch sử Mỹ là “Thứ hai đen tối”. Trong vòng một ngày, chỉ số quỹ Dow Jones Industrial sụt đi 22,6%. Tiếp theo thị trường Canada và Úc bị sụt giảm, còn sở giao dịch Hồng Kông nghỉ việc trong vòng một tuần. Vào năm 1994-1995, khủng hoảng nổ ra ở Mêhicô, hai năm sau thị trường quỹ của châu Á sụp đổ. Các chuyên gia kết luận rằng khủng hoảng ở châu Á làm GDP thế giới giảm 2 ngàn tỷ đô-la. Một năm sau Nga đã phải tuyên bố lạm phát và chấp nhận buông xuôi, vì món nợ nhà nước quá lớn. Thị giá đồng Rúp sụt giảm, còn những người đầu tư quay lưng lại với kinh tế Nga. Khủng hoảng năm 2008 là khủng hoảng đầu tiên đối với chúng ta, vì thế ở những nước như Ucraine nó là nỗi lo sợ, là hiện tượng đáng lưu tâm, và, cho dù đã xem xét phạm vi lan rộng của nó, đó là hiện tượng lô-gíc và tiên đoán được trước, và nhiều chuyên gia đã nói về nó trước khi nó bắt đầu. Chúng ta chỉ nêu tên những thời điểm chủ yếu trong lịch sử kinh tế, bởi vì còn rất nhiều ví dụ khác ít quan trọng hơn, nhưng vẫn tác động mạnh đến số phận nhiều nước... Cần phải nói rằng nhân loại sống với khủng hoảng nhiều hơn là thiếu nó, ít ra là trong một thế kỷ rưỡi gần đây. Nhưng vì sao kinh tế vẫn phát triển? Dự đoán cho tương lai Có thể gọi khủng hoảng tài chính thế nào cũng được – cơn hốt hoảng, sự đình trệ, sự giảm sút hoặc quá trình giảm tốc độ, nhưng bản chất của nó không thay đổi. Nó là một “căn bệnh” như thế. Khủng hoảng là hội chứng nói rằng thế giới không thể thực hiện kinh doanh như trước nữa. Cần phải cấp thiết khởi động lại toàn bộ hệ thống. Nhà triết học thế kỷ 18 David Yum - người Scôt-len, nhà kinh tế học có tiếng nước Anh - đại diện trường phái cổ điển, David Riccardo ở thế kỷ 19 và nhà kinh tế học Liudvic phon Mizes vào thế kỷ 20, trong những lý luận của mình đều bênh vực ý kiến rằng khủng hoảng đã tác động có lợi cho toàn bộ hệ thống kinh tế. Họ khẳng định rằng khủng hoảng là một quá trình, nhờ quá trình đó kinh tế thị trường được cứu thoát khỏi tình trạng cùng cực, kinh tế trong tương lai tránh được sai lầm từ sự phồn vinh tạm thời cùng với lạm phát lần trước; và tạo động năng để hồi phục tình trạng kinh tế vững chắc. Đình đốn là hiện tượng không dễ chịu, nhưng là sự phản ứng cần thiết. Ảnh: saga Có nhiều ví dụ tác động có lợi của khủng hoảng. Ví dụ: “Vào năm 1987 nó tỏ rõ sức mạnh của nước Nhật và làm sức lực kinh tế và tài chính của Nhật biến chuyển rõ rệt”, - chuyên viên tài chính George Soros kể lại kết quả khủng hoảng năm 1987. Theo ý kiến của nhà kinh tế học V. S. Milôv – người Nga, thì khủng hoảng ở Nga đã có vai trò tích cực trong việc phát triển kinh tế Nga, vì lý do khủng hoảng xuất hiện đã đòi hỏi nhà nước phải lập lại kỷ luật ngân sách-tài chính, đã bị tăng lên đột ngột sau những năm khủng hoảng, cho dù nó có tác động tiêu cực cho phúc lợi nhân dân. Hơn nữa, khủng hoảng có thể làm chứng cứ về việc kinh tế những nước công nghiệp phát triển chuyển đổi khoa học kỹ thuật và kinh tế-xã hội lên cấp độ mới. Khủng hoảng xuất hiện khi hệ thống tài chính và kinh tế tích lũy quá nhiều thành phần xơ cứng, không hiệu quả và không hợp lý. Kinh tế của Mỹ giảm sút cầm cố, nhưng đó chỉ là lý do mà theo luật đô-mi-nô, đã vạch trần những vết thương kinh tế thế giới được che giấu từ lâu. Sự giảm sút đã tạo thuận lợi trong việc loại bỏ bộ phận yếu kém trong dây xích kinh tế thế giới và có thể là phần lớn nền kinh tế các nước phát triển. Một nước nào đó trải qua càng nhiều chấn động kinh tế, càng nhiều điểm yếu được loại bỏ, và khi kinh tế thoát khỏi khủng hoảng, càng khỏe mạnh hơn trước. Trước đây luôn luôn thế, và khủng hoảng hiện nay sẽ không phải là ngoại lệ. Cũng có khả năng khủng hoảng có thể hủy diệt kinh tế. Nhưng trong trường hợp hiện nay, phải đặt những nhân tố chính trị và xã hội lên trên để tạo điều kiện làm đoàn kết xã hội như một khối thống nhất. Trong trường hợp này không cần thiết phải nói về sự tử vong kinh tế, cho dù có thể hay không. Khách quan mà nói, khủng hoảng không thể hoạch định trước bởi ai đó được. Chúng là cấu thành khăng khít của hệ thống chủ nghĩa tư bản thế giới. Mãi về sau này khủng hoảng kinh tế vẫn sẽ tiếp tục. Điều chủ yếu là cần phải rút ra được những kết luận đúng từ lịch sử và không phí thời gian vô ích. Khủng hoảng hiện nay khác với trước bởi vì thành phần văn hóa-xã hội đã không như trước. Không được phép sống theo cách không hợp với túi tiền. Chúng ta cũng cần phải xem xét lại triết lý về cách đối sử với đồng tiền. Và cuối cùng, “krisis” dịch từ tiếng Hy Lạp cổ là “chỗ ngoặt”, vì thế cần phải hiểu rõ cái gì có thể sẽ chờ đợi chúng ta sau chỗ ngoặt đó. Diệu Linh (từ Ucraine) (Theo Think flying, tạp chí DONBASS.AERO 05-06/2009)

Nguồn TuanVietNam: http://tuanvietnam.net/vn/tulieusuyngam/8002/index.aspx