Đất nước 30 năm đổi mới: Nhận thức đúng để đột phá trong hành động

30 năm - một chặng đường lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất nước, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Trong bối cảnh thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, tình hình đất nước có nhiều biến đổi, đan xen thuận lợi, thời cơ, khó khăn, thách thức..., dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng, toàn Đảng, toàn dân ta đã tận dụng thời cơ, thuận lợi, nỗ lực vượt qua khó khăn, thách thức, đưa sự nghiệp đổi mới đến thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử hướng đến mục tiêu 'Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh'.

Thực tiễn 30 năm đổi mới, với 6 kỳ Đại hội, hai lần ban hành Cương lĩnh và 02 bản Hiến pháp mới, nhận thức của Đảng ta về công cuộc đổi mới, về CNXH và con đường đi lên CNXH của đất nước đã có những bước tiến lớn; tiếp tục vận dụng, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu kinh nghiệm quốc tế.

Mỗi kỳ đại hội lại đánh dấu một bước tiến trong nhận thức lý luận, đường lối, chính sách phát triển đất nước, làm cơ sở cho hoạt động thực tiễn ngày càng hiệu quả hơn. Đường lối đổi mới hình thành, phát triển là một quá trình tìm tòi, thử nghiệm, đấu tranh, kết hợp tổng kết thực tiễn với nghiên cứu lý luận; khắc phục những yếu kém, khuyết điểm, tư tưởng giáo điều, bảo thủ, cực đoan, duy ý chí để tiếp cận dần với chân lý khách quan.

Công cuộc đổi mới ngày càng đi vào chiều sâu, nảy sinh những vấn đề mới, mâu thuẫn, thời cơ, thuận lợi, khó khăn, thách thức…, đòi hỏi Đảng ta phải không ngừng nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, thường xuyên bổ sung, phát triển đường lối, tạo ra động lực mới và đạt những thành tựu to lớn hơn.

Nhận thức của Đảng ta ngày càng rõ, sát thực tế hơn, phù hợp với mục tiêu, bản chất, đặc trưng, cấu trúc, thể chế và cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Từ chỗ coi kinh tế hàng hóa có những mặt tích cực cần vận dụng đến xác định “kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam” (Đại hội IX) và “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản” (Đại hội XI). Để xây dựng kinh tế có hiệu quả, cơ quan lập pháp đã ba lần sửa đổi, ban hành Hiến pháp, 150 bộ luật và luật, 70 pháp lệnh, tạo cơ sở pháp lý cho sự chuyển đổi và vận hành nền kinh tế.

Đại hội VII của Đảng đã đánh dấu bước tiến trong tư duy lý luận, chuyển từ quan niệm công nghiệp hóa truyền thống sang quan niệm về “Công nghiệp hóa theo hướng hiện đại”. Đại hội VIII đề ra mục tiêu và 6 quan điểm lớn chỉ đạo quá trình xây dựng. Đại hội IX tiếp tục xác định Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền tảng để nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Đại hội X và XI, Đảng xác định phải gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế; gắn kết tiềm năng và lợi thế của đất nước, vai trò của thị trường và của Nhà nước, nguồn lực bên trong và bên ngoài, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, ứng dụng khoa học - công nghệ và tiếp cận tri thức mới của nhân loại.

Đảng ta đã ban hành 29 nghị quyết, kết luận, chỉ thị về văn hóa, thể hiện bước tiến về nhận thức lý luận. “Văn hóa”được xác định là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực, là nguồn lực nội sinh quan trọng của phát triển; 4 đặc trưng cơ bản của văn hóa dân tộc và những định hướng lớn về chủ trương, giải pháp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã được làm rõ. Xã hội ta dân chủ, cởi mở hơn; dân trí được nâng cao, tính tính cực cá nhân và xã hội được thể hiện. Những nhân tố, giá trị mới từng bước được định hình; cơ chế, chính sách từng bước được đổi mới, hoàn thiện.

Đảng ta nhận thức rõ hơn những vấn đề về xã hội. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội được thể hiện trong từng chính sách cụ thể. Nhận thức về tôn giáo, tín ngưỡng có bước tiến quan trọng; thừa nhận những giá trị tích cực của văn hóa, đạo đức tôn giáo; các chính sách về lao động, việc làm đã có nhiều chuyển biến; hệ thống y tế cơ sở hình thành, dịch vụ y tế chất lượng được nâng cao; chính sách ưu đãi người có công được coi trọng; thành tựu giảm nghèo được Liên hợp quốc công nhận.

Nhận thức ngày càng rõ hơn về sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, một trong hai nhiệm vụ chiến lược, có mối quan hệ biện chứng, không thể tách rời; xây dựng tốt mới tạo được sức mạnh bảo vệ, bảo vệ tốt mới tạo điều kiện thuận lợi cho xây dựng đất nước. Nhận thức về kết hợp kinh tế với quốc phòng; quốc phòng với an ninh và đối ngoại ngày càng đầy đủ, toàn diện hơn. Vấn đề “giữ vững chủ quyền biển, đảo”, “ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống”, “an ninh chủ động” được Đại hội XI của Đảng đặc biệt quan tâm.

Đảng ta đã có chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế phù hợp hơn. Trong khi khẳng định thời kỳ quá độ lên CNXH với tính chất phức tạp, quanh co và rất lâu dài của quá trình chuyển biến xã hội, nên đã hướng vào đánh giá trực tiếp những động thái, đặc trưng, xu hướng và tính chất trong giai đoạn hiện nay.

Đảng ta nhận định cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, tác động mạnh đến tình hình thế giới. Những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, cường quyền áp đặt, thực dụng ngày càng nổi lên trong quan hệ quốc tế, qua đó nhận thức sâu sắc hơn mục tiêu tối thượng là lợi ích quốc gia - dân tộc; phát triển được đặt lên hàng đầu, ngoại giao kinh tế và bảo vệ Tổ quốc được coi trọng.

Đảng ta đã nhận thức ngày càng sâu sắc hơn tầm quan trọng và vai trò của xây dựng và phát huy dân chủ XHCN,dân chủ là bản chất của chế độ, vừa là mục tiêuvừa là động lựccủa công cuộc đổi mới. Nền dân chủ XHCN ở Việt Nam phải vừa thể hiện các giá trị dân chủ phổ quát của nhân loại, vừa thể hiện những giá trị đặc trưng phản ánh bản sắc văn hóa, truyền thống của Việt Nam; có nội dung cốt lõi là tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, quyền làm chủ của nhân dân, gắn liền với việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.

Đảng ta đã xác định rõ và đầy đủ hơn bản chất của Đảng “là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”, đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước năm 2011. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống đó. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Tại Đại hội VII, Đảng ta khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng, khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam (Đại hội XI).

Nhìn lại 30 năm qua, bằng sự vượt lên và đạt được “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử”, khẳng định đổi mới là sự lựa chọn chính xác và chứng minh đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, khoa học, sáng tạo. Đồng thời, những vấp váp, hạn chế, yếu kém trên con đường phát triển càng chứng tỏ đổi mới là một sự nghiệp khó khăn, lâu dài, phức tạp, đòi hỏi phải chủ động, kiên định và không ngừng sáng tạo, phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, rút kinh nghiệm để điều chỉnh, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách nhằm đưa sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta do Đảng lãnh đạo sớm đạt được mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

30 năm đổi mới với nhiều ấn tượng

Từ một nước nông nghiệp thuộc nhóm nghèo của thế giới, với mức tăng trưởng GDP bình quân đầu người chỉ đạt 98 USD, Việt Nam đã gia nhập nhóm nước thu nhập trung bình thấp vào năm 2011 và đến năm 2013, GDP bình quân đầu người đạt 1.910 USD, năm 2015 thu nhập bình quân đầu người đạt gần 2.300 USD. Đó thực sự là những bước chuyển biến ấn tượng, tỷ lệ nghèo theo chuẩn quốc tế tại Việt Nam giảm mạnh và liên tục, từ 58,1% năm 1993 xuống 28,9% năm 2002, 14,2% năm 2010 và 8,4% năm 2014. Điều quan trọng là số hộ nghèo cùng cực (thu nhập 1,25 USD/ngày) gần như “biến mất”.

30 năm đổi mới đã hai lần sửa đổi và ban hành Hiến pháp, sửa đổi và ban hành trên 150 bộ luật và luật, trên 70 pháp lệnh. Gần đây nhất, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp 2013 và hàng loạt bộ luật để thể chế hóa Hiến pháp 2013, cơ bản đã tạo cơ sở pháp lý hình thành và thúc đẩy việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đó là khẳng định nguyên tắc nền kinh tế có chế độ đa sở hữu, đa thành phần, nhiều hình thức phân phối; khẳng định nguyên tắc phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và vận hành thông suốt các loại thị trường; khẳng định nguyên tắc Nhà nước quản lý nền kinh tế theo các nguyên tắc của cơ chế thị trường; khẳng định nguyên tắc đảm bảo thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường; khẳng định nguyên tắc mở cửa, hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới.

An sinh xã hội cơ bản được đảm bảo; hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội phát triển khá đồng bộ, đặc biệt là trong vấn đề giảm nghèo, giải quyết việc làm, phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội, chính sách ưu đãi người có công với nước, trợ giúp xã hội, chính sách bảo hiểm y tế toàn dân, tạo điều kiện để người dân được hưởng thụ nhiều hơn về văn hóa, y tế và giáo dục. Trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều khó khăn, Việt Nam đã tăng thêm ngân sách và huy động nguồn lực để thực hiện các chính sách xã hội, đồng thời hoàn thành trước thời hạn nhiều mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc.

Cùng với thành tựu kinh tế - xã hội thì hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế; tích cực xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015 và hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết WTO. Cho đến nay, đã có 59 quốc gia công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam. Việt Nam đã ký kết 10 Hiệp định Thương mại tự do khu vực và song phương (gồm 6 Hiệp định FTA ký kết với tư cách là thành viên ASEAN; 4 Hiệp định FTA đàm phán với tư cách là một bên độc lập); vừa hoàn tất đàm phán 2 Hiệp định FTA (Liên minh châu Âu và TPP); đang tích cực đàm phán 3 Hiệp định FTA khác (ASEAN-Hong Kong; EFTA; RCEP).

Nguyễn Nhâm

Nguồn GTVT: http://www.tapchigiaothong.vn/dat-nuoc-30-nam-doi-moi-nhan-thuc-dung-de-dot-pha-trong-hanh-dong-d20780.html