Dự thảo cho phép tăng quy mô giúp giảm thiểu áp lực về 'thiếu trường, thiếu lớp'

Khi quy mô của các trường tăng lên, việc tận dụng tài nguyên và cơ sở vật chất sẽ được thực hiện một cách hiệu quả hơn.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đang lấy ý kiến góp ý cho Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung và bãi bỏ một số điều của Quy định tiêu chuẩn cơ sở vật chất các trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học ban hành kèm theo Thông tư số 13/2020/TT-BGDĐT.

Theo dự thảo, có một số điểm sửa đổi đáng chú ý về tiêu chuẩn cơ sở vật chất, quy mô của trường mầm non, phổ thông.

Cụ thể, trường mầm non có quy mô tối thiểu 9 nhóm, lớp và tối đa 30 nhóm, lớp. Đối với trường tại các xã thuộc vùng khó khăn và các trường dân lập, tư thục có quy mô tối thiểu 5 nhóm, lớp, (quy định cũ, yêu cầu trường mầm non có tối đa 20 nhóm, lớp).

Đối với các trường tiểu học, quy mô tối thiểu 10 lớp và tối đa 40 lớp. Trường tại các xã thuộc vùng khó khăn có quy mô tối thiểu 5 lớp. Quy định cũ yêu cầu trường tiểu học có quy mô tối thiểu 10 lớp và tối đa 30 lớp.

Đối với các trường trung học phổ thông, quy mô tối thiểu 15 lớp và tối đa 50 lớp, (quy định cũ, yêu cầu quy mô tối thiểu 15 lớp và tối đa 45 lớp).

Trường phổ thông có nhiều cấp học có tối thiểu 9 lớp và tối đa 50 lớp (đối với trường có 2 cấp học), 75 lớp (đối với trường có 3 cấp học). Quy định cũ, yêu cầu có quy mô tối thiểu 9 lớp và tối đa 45 lớp.

Giải bài toán quá tải trường lớp, tận dụng tài nguyên và cơ sở vật chất có hiệu quả

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Thạc sĩ La Thị Thúy - Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Bến Tre chia sẻ, các điểm mới trong dự thảo này phù hợp với tình hình thực tế địa phương, giảm áp lực về quy mô trường lớp, cơ sở vật chất. Về cơ bản những điểm mới của dự thảo này phần nào đã khắc phục được các tồn tại, hạn chế ở một vài quy định hiện hành trong giai đoạn hiện tại.

Theo Thạc sĩ La Thị Thúy, đối với các trường mầm non, tiểu học, trung học, việc mở rộng quy mô của các trường như được đề xuất trong dự thảo có thể tạo ra một số lợi ích và điều kiện thuận lợi cho các trường, cụ thể như sau: Mở rộng quy mô của các trường có thể giúp đáp ứng nhu cầu giáo dục của địa phương, đặc biệt đối với địa bàn đông dân cư, khu cụm công nghiệp. Với quy mô lớn hơn, các trường có thể triển khai nhiều lớp chuyên ngành và môn học khác nhau, giúp đáp ứng đa dạng hóa nhu cầu học tập của học sinh, tạo ra môi trường học tập phong phú và hứng thú. Đồng thời cũng là giải pháp để giải quyết tình trạng quá tải trường lớp hiện nay.

Khi quy mô của các trường tăng lên, việc tận dụng tài nguyên và cơ sở vật chất sẽ được thực hiện một cách hiệu quả hơn. Ví dụ, các phòng học, phòng thí nghiệm và cơ sở thể thao có thể được chia sẻ và sử dụng chung giữa các lớp học, giảm thiểu lãng phí và tăng hiệu suất sử dụng.

Tuy nhiên, theo Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Bến Tre, quá trình triển khai cần xem xét các yếu tố khác như hạ tầng, nguồn nhân lực, chất lượng giáo dục và sự phù hợp với điều kiện địa phương. Việc mở rộng quy mô cần được tiến hành cùng với các biện pháp kiểm soát và quản lý chặt chẽ để đảm bảo chất lượng giáo dục.

Dự thảo cũng sửa đổi quy định, tiêu chuẩn cơ sở vật chất trường tiểu học, đối với yêu cầu khối phòng học tập, dự thảo quy định phòng học bộ môn cần có tối thiểu 03 phòng để tổ chức dạy học các môn học Âm nhạc, Mỹ thuật, Khoa học - Công nghệ, Tin học, Ngoại ngữ. Trong khi đó, quy định cũ không có nội dung về ghép các phòng học bộ môn mà tách riêng quy định cho từng học bộ môn cụ thể.

Cô Thúy nhận định: "Quy định mới nêu trên nếu được ban hành sẽ giảm áp lực yêu cầu về kinh phí cho các trường đang chuẩn bị xây dựng mới hoặc sửa chữa bổ sung phòng học bộ môn để đạt chuẩn, phù hợp với điều kiện thực tế của các nhà trường trong tổ chức dạy học (trường tự sắp xếp, phân bố phù hợp sử dụng 3 phòng để tổ chức dạy học các môn học Âm nhạc, Mỹ thuật, Khoa học - Công nghệ, Tin học, Ngoại ngữ).

Về điểm mới của dự thảo trên tôi nhận thấy khá phù hợp, sẽ giảm áp lực về kinh phí xây dựng (nhất là sửa chữa bổ sung phòng học bộ môn cho các cơ sở giáo dục đã xây dựng trước đây) để đạt chuẩn, phù hợp với điều kiện thực tế của các nhà trường trong tổ chức dạy học (tùy quy mô trường sẽ sắp xếp, phân bố phù hợp). Đồng thời trường vận dụng, khai thác và sử dụng hết công năng của mỗi phòng trong việc tổ chức dạy học các môn học Âm nhạc, Mỹ thuật, Khoa học - Công nghệ, Tin học, Ngoại ngữ".

Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Bến Tre nêu đề xuất, nên quy định cần có tối thiểu 04 phòng để tổ chức dạy học các môn học Âm nhạc, Mỹ thuật, Khoa học - Công nghệ, Tin học, Ngoại ngữ. Cụ thể: 01 phòng để dạy môn học Âm nhạc và Mỹ thuật; 01 phòng để dạy Khoa học - Công nghệ; 01 phòng để dạy Tin học và 01 phòng để dạy Ngoại ngữ.

Cùng với đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất trường, lớp được coi là một trong hai yếu tố quyết định đến chất lượng dạy và học.

Các năm học qua, Sở Giáo dục và Đào tạo Bến Tre đã tham mưu Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, phối hợp các Sở ngành có liên quan, triển khai đến phòng giáo dục và đào tạo các huyện thành phố rà soát, lập dự toán, dự án để tham mưu các cấp thẩm quyền (theo phân cấp) đầu tư xây dựng, sửa chữa, nâng cấp và mua sắm thiết bị mới nhằm đảm bảo điều kiện cơ sở vật chất để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục của các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh Bến Tre.

Ngoài ra, để tạo điều kiện cho các trường đạt chuẩn, nâng cao chất lượng giáo dục trong thời gian tới, về tiêu chuẩn cơ sở vật chất, Thạc sĩ La Thị Thúy kiến nghị: "Các cấp lãnh đạo quan tâm đầu tư xây dựng mới đối với các cơ sở giáo dục có cơ sở vật chất đã xuống cấp nặng; sửa chữa, nâng cấp những hạng mục còn giá trị sử dụng từ 5 năm trở lên; có chương trình, chính sách hỗ trợ cơ sở vật chất cho các tỉnh còn khó khăn; cung cấp và trang bị đầy đủ các trang thiết bị dạy học theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018.

Bên cạnh đó, khuyến khích các trường học mạnh dạn đổi mới trong việc sử dụng công nghệ và thiết bị giáo dục hiện đại để tối ưu hóa việc học tập và giảng dạy. Tạo ra các cơ chế để các trường học có thể chia sẻ tài nguyên và kinh nghiệm trong việc nâng cao cơ sở vật chất và chất lượng giáo dục".

Cô Thúy cũng khẳng định, việc đảm bảo cơ sở vật chất trong dạy học là cần thiết để đảm bảo chất lượng giáo dục. Giáo viên, học sinh được hưởng thụ các điều kiện tốt nhất có thể để dạy tốt, học tốt. Các nội dung yêu cầu về cơ sở vật chất phải có để đảm bảo học tập, quyền lợi của học sinh, giáo viên thì phải được ưu tiên trong triển khai thực hiện.

Sự cần thiết, tầm quan trọng của việc đảm bảo cơ sở vật chất đối với sự phát triển của các trường và đảm bảo quyền lợi của học sinh, có thể khẳng định như sau:

Thứ nhất, tạo động lực tốt cho việc giảng dạy của giáo viên và sự hứng thú học tập của học sinh. Cơ sở vật chất phải đảm bảo môi trường học tập an toàn và thuận lợi cho học sinh và giáo viên. Điều này bao gồm việc có các phòng học sạch sẽ, đủ ánh sáng và thoáng mát, các thiết bị giáo dục cần thiết và cơ sở vật chất an toàn như hệ thống phòng cháy và sự bảo đảm về vệ sinh.

Thứ hai, cơ sở vật chất tốt giúp tạo điều kiện tốt nhất cho quá trình giảng dạy và học tập, thực hiện hiệu quả Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Các phòng học được trang bị đầy đủ và hiện đại có thể tăng cường sự tương tác giữa giáo viên và học sinh, cũng như giúp học sinh tập trung hơn vào việc học.

Thứ ba, đảm bảo khắc phục được một số bệnh tật học đường cho học sinh, góp phần bảo vệ sức khỏe cho các em khi đến lớp, đến trường để tham gia các hoạt động giáo dục.

Thứ tư, trên cơ sở đó, giúp nhà trường có kế hoạch huy động các nguồn lực từ cộng đồng sẽ tốt hơn.

Thứ năm, cơ sở vật chất hiện đại và chất lượng là cơ sở cho việc triển khai các công nghệ và phương pháp giảng dạy tiên tiến. Việc có cơ sở vật chất tốt có thể khuyến khích sự đổi mới trong giáo dục, giúp học sinh tiếp cận các công nghệ mới và phát triển năng lực, kỹ năng cần thiết cho cá nhân.

Tuy nhiên, theo cô Thúy, phải xem xét đến tính sử dụng trên thực tế. Quy định cần có yêu cầu mở hơn về tiêu chí, tăng dần theo nhu cầu thực tế của từng giai đoạn phát triển của nhà trường, không quá cao so với nhu cầu thực tế để tránh lãng phí trong đầu tư xây dựng.

Đề xuất mỗi môn nên có tối thiểu 1 phòng bộ môn

Thạc sĩ Phạm Văn Ngát - Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo Thanh Trì (Hà Nội) cũng nhìn nhận, theo xu hướng gia tăng dân số tại các thành phố lớn, khu công nghiệp, nhu cầu nhà ở, trường học ở các nơi này ngày một tăng cao, trong khi việc quy hoạch, xây dựng trường, lớp mới không theo kịp (nhất là những khu đô thị cũ không còn quỹ đất), dẫn đến tình trạng quá tải số học sinh/ lớp, có nơi thiếu chỗ học giáo dục công lập, nhất là cấp mầm non, tiểu học. Do đó, việc mở rộng quy mô theo dự thảo sẽ tạo điều kiện giải quyết được một số vấn đề:

Thứ nhất, tình trạng thiếu lớp học ở những nơi trường còn diện tích phù hợp, xây thêm lớp học, giảm số học sinh/ lớp, nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ.

Thứ hai, việc tăng số lớp tối đa trong trường mầm non lên 30 lớp sẽ tránh được việc trường mầm non hơn 20 lớp (ví dụ 21, 22 lớp) đã phải chia nhỏ, tách ra làm 2 trường, dẫn tới bộ máy điều hành cồng kềnh, tốn kém ngân sách, nhân lực. Các nhà trường nhỏ lẻ hoạt động sẽ khó khăn trong việc cân đối ngân sách của địa phương và nhà trường, đặc biệt khi Hà Nội đang mạnh mẽ thực hiện mô hình đặt hàng giáo dục và tự chủ.

Thứ ba, khi thực hiện quy mô xây dựng các trường mới, phần quy hoạch sẽ rộng hơn, có tầm nhìn xa hơn với số dân hiện có, để từ đó theo kịp được sự phát triển dân số, tránh việc chưa xây xong đã phải quy hoạch trường mới vì đã thiếu so với sự phát triển địa phương.

Thạc sĩ Phạm Văn Ngát cho rằng, việc mở rộng quy mô nêu trên là một trong những giải pháp cần thiết để xử lý tình trạng quá tải trường lớp hiện nay. Bởi xây thêm được lớp học giảm số học sinh/ lớp với những trường vẫn còn diện tích khuôn viên phù hợp. Quy hoạch trường lớp mới sẽ có tầm nhìn rộng hơn để không quy hoạch manh mún mà phù hợp với số lớp của Thông tư để phù hợp với phát triển của những năm tiếp theo.

Tuy nhiên, để giải pháp này thực hiện được triệt để thì phải giải quyết được những khó khăn bất cập liên quan: Tăng số lớp thì số lượng giáo viên/lớp không đủ, vì đối với cấp học mầm non còn gặp nhiều khó khăn trong tuyển dụng viên chức và hợp đồng giáo viên. Bên cạnh đó, diện tích xây dựng quy hoạch quỹ đất tại một số địa phương còn hạn chế.

Đối với yêu cầu khối phòng học tập, dự thảo quy định phòng học bộ môn cần có tối thiểu 03 phòng để tổ chức dạy học các môn học Âm nhạc, Mỹ thuật, Khoa học - Công nghệ, Tin học, Ngoại ngữ, theo Thạc sĩ Phạm Văn Ngát: "Đây cũng là sự điều chỉnh phù hợp với thực tế, tháo gỡ khó khăn cho các cơ sở giáo dục. Việc quy định số phòng học bộ môn tối thiểu vừa không gây khó khăn cho các cơ sở có đủ số phòng học riêng cho các môn chuyên biệt, lại tháo gỡ được vướng mắc cho một số cơ sở giáo dục chưa đủ phòng học cho các lớp.

Song, theo tôi, để nâng cao chất lượng dạy và học các bộ môn năng khiếu; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên trong việc bảo quản, sử dụng trang thiết bị , đồ dùng dạy học (do đặc thù các bộ môn này có rất nhiều trang thiết bị, đồ dùng dạy - học, không nên ghép chung phòng bộ môn âm nhạc và mỹ thuật) tôi đề xuất mỗi môn nên có tối thiểu 1 phòng. Cụ thể: 1 phòng học bộ môn âm nhạc; 1 phòng bộ môn mỹ thuật; 1 phòng học bộ môn khoa học - công nghệ; 1 phòng học bộ môn tin học; 1 phòng học bộ môn ngoại ngữ và 1 phòng đa chức năng".

Cơ sở vật chất đẹp và khang trang không chỉ tạo cảnh quan sự đồng bộ về các công trình trong quy hoạch kiến trúc hạ tầng tại địa phương mà còn tạo sự yên tâm, tin tưởng từ cha mẹ học sinh khi gửi con học tại trường.

Thạc sĩ Phạm Văn Ngát

Chia sẻ về thực tế tại đơn vị quản lý, Thạc sĩ Phạm Văn Ngát cho biết: "Thanh Trì là một huyện ven đô, dân số cơ học tăng nhanh. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, thời gian qua, Phòng Giáo dục và Đào tạo đã rất quan tâm tới việc đảm bảo cơ sở vật chất cho các cơ sở giáo dục trên địa bàn huyện.

Bên cạnh đó, Phòng cũng yêu cầu cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên các nhà trường nâng cao tinh thần trách nhiệm trong quản lý, khai thác và sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất, tài liệu, thiết bị dạy học. Thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng sử dụng tài liệu, phương tiện kỹ thuật trong dạy học.

Phòng cũng chỉ đạo các nhà trường chủ động xây dựng kế hoạch bảo dưỡng, xây dựng kế hoạch tài chính bảo đảm cho việc mua sắm, sửa chữa, bảo trì trang thiết bị kỹ thuật. Có kế hoạch tiết kiệm, huy động nguồn tài chính (cấp trên cấp hoặc từ nguồn kinh phí khác), đồng thời cần thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí trong mua sắm, trang bị, sử dụng cơ sở vật chất, tài liệu, phương tiện kỹ thuật phục vụ dạy học đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục".

Cũng theo Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo Thanh Trì, được học tập trong một môi trường có cơ sở vật chất khang trang mang ý nghĩa khá lớn đối với các em học sinh, là điều kiện cần thiết để học sinh tham gia các hoạt động học tập thuận lợi, dễ dàng; giúp các em học sinh tích cực, chủ động tiếp cận, trải nghiệm, tương tác; chủ động tư duy, tìm tòi và sáng tạo. Đồng thời cơ sở vật chất còn đóng vai trò quan trọng là phương tiện để giáo viên thực hiện tốt hơn việc chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục học sinh, môi trường giáo dục tốt sẽ giúp học sinh phát triển toàn diện và văn minh tiếp cận nhanh hơn với sự phát triển của thế giới bên ngoài.

Nên có quy định cụ thể về việc nâng tầng để đảm bảo tiêu chí diện tích đất/học sinh

Cùng trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, cô Vũ Thị Trâm - Phó Hiệu trưởng Trường Tiểu học Lê Quý Đôn (Hà Đông, Hà Nội) cho biết, cơ sở vật chất là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục trong các nhà trường.

"Cơ sở vật chất được hiểu là tất cả các phương tiện được sử dụng cho mục đích giảng dạy, học tập và các hoạt động khác liên quan đến bồi dưỡng, học tập giúp giáo viên nâng cao chất lượng giảng dạy và học sinh nâng cao khả năng tiếp thu, lĩnh hội, trải nghiệm kiến thức, đồng thời rèn luyện và hoàn thiện các kỹ năng cần thiết trong quá trình học tập", cô Trâm chia sẻ.

Ngoài ra, theo cô Trâm, việc tăng quy mô số lớp đã giúp giảm thiểu áp lực về “thiếu trường, thiếu lớp” hiện nay đặc biệt ở các khu đô thị và thành phố lớn. Việc giảm bớt diện tích khu đất cho các hạng mục công trình phục vụ nội trú; ăn, ở tập trung cho một học sinh bán trú (đối với các khu đô thị loại III) từ 8m2 xuống 6m2 đã giúp chính quyền, cơ sở giáo dục có thêm nguồn quỹ đất, không bị áp lực về diện tích tối thiểu của mỗi học sinh.

Căn cứ điều kiện thực tế, ghép một số phòng học bộ môn theo nguyên tắc bảo đảm đủ chức năng của các phòng học bộ môn, có chức năng tương đồng, đầy đủ thiết bị cho mỗi môn học, bảo đảm việc bố trí thời gian, không gian để thực hiện kế hoạch và hoạt động giáo dục theo từng chức năng, bảo đảm định mức giờ dạy trên quy mô học sinh đối với các môn học. Điều này cũng tạo điều kiện để các trường khai thác và sử dụng tối đa cơ sở vật chất và phòng học hiện có, tránh lãng phí cũng như tận dụng được nguồn quỹ đất.

Theo cô Trâm, việc bãi bỏ Điểm a Khoản 4 Điều 11: Phòng nghỉ của giáo viên bố trí liền kề với khối phòng học tập đảm bảo 10 lớp có 01 phòng sẽ tạo thuận lợi cho các nhà trường khai thác hết hiệu quả các phòng hiện có và nâng tỉ lệ trường đạt chuẩn quốc gia nhưng giáo viên có thể sẽ không có phòng nghỉ sau mỗi giờ dạy.

Theo cô Trâm, quy định này sẽ là một trong những văn bản pháp lý để giúp các quận, huyện tiếp tục rà soát, quy hoạch để điều chỉnh, bổ sung theo hướng ưu tiên bố trí quỹ đất, đầu tư cơ sở vật chất cho giáo dục.

Ngoài ra, dự thảo sửa đổi tiêu chuẩn về quy mô của trường tiểu học như sau: Trường tiểu học có quy mô tối thiểu 10 lớp và tối đa 40 lớp (thay cho tối đa 30 lớp như quy định hiện hành tại Thông tư số 13) sẽ tạo thuận lợi cho một số trường có điều kiện đặc biệt là các trường nội đô. Cụ thể:

Một số trường sẽ không còn bị vượt chỉ tiêu về sĩ số học sinh theo tiêu chuẩn. Quy mô trường lớp được mở rộng, góp phần giảm thiểu được áp lực “thiếu trường, thiếu lớp”.

Sử dụng được hiệu quả nguồn nhân lực theo Đề án vị trí việc làm hiện nay đối với vị trí việc làm chuyên môn dùng chung và hỗ trợ phục vụ.

"Theo tôi, đây cũng là một giải pháp nhằm giảm thiểu áp lực “thiếu trường, thiếu lớp” nhưng ở một số địa phương có lượng dân số biến động gia tăng cao như Hà Nội thì giải pháp này cũng chưa thể giải quyết được ngay trong thời gian tới", cô Trâm nhìn nhận thêm.

Để nâng cao điều kiện cơ sở vật chất, cô Trâm cho biết, Trường Tiểu học Lê Quý Đôn đã sử dụng có hiệu quả diện tích đất được sử dụng để khuôn viên nhà trường được xanh – sạch – đẹp – sáng – an toàn. Nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân trong việc bảo vệ, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất được cấp phát, hỏng đâu sửa ngay đó, thường xuyên duy tu, bảo dưỡng máy móc, thiết bị và các hạng mục công trình.

Nhà trường có nội quy, quy định cụ thể về việc sử dụng, bảo vệ và quản lý tài sản công, gắn ý thức trách nhiệm với quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi giáo viên, học sinh, nhân viên trong việc quản lý và sử dụng tài sản được cấp phát. Có kế hoạch trích một phần ngân sách hằng năm để đầu tư cơ sở vật chất...

Phó Hiệu trưởng Trường Tiểu học Lê Quý Đôn cũng nêu đề xuất: "Một số trường học trong khu vực nội thành có khó khăn về quỹ đất thì nên có quy định cụ thể về việc nâng tầng để đảm bảo tiêu chí diện tích/ học sinh.

Dự thảo Thông tư điều chỉnh quy định về tiêu chuẩn cơ sở vật chất trường mầm non, phổ thông cần được sớm được hoàn thiện, phê duyệt và đi vào thực hiện sau khi đã nhận được các ý kiến đóng góp từ các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan chuyên môn và các cơ sở giáo dục. Tuy nhiên, cần có những hướng dẫn cụ thể mang tính đặc thù đối với các khu vực phát triển nhanh, tốc độ di dân lớn, quỹ đất hạn hẹp để tránh tình trạng thông tư mới ban hành đã có điểm không còn phù hợp với thực tế hoặc với các văn bản quy phạm pháp luật khác".

Thi Thi

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/du-thao-cho-phep-tang-quy-mo-giup-giam-thieu-ap-luc-ve-thieu-truong-thieu-lop-post242546.gd